Đức
tin là một sự tăng trưởng.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Ký sự thuật lại
lần xuất hiện thứ hai của Chúa tại phòng Tiệc
ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản
tính cứng tin. Ký sự đáng cho ta chú ý về
hai điểm được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại hữu thể
trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa
ra bất kỳ lý thuyết phỏng đoán về cơ thể
hiển vinh của Chúa. Tiếp đến
là tầm quan trọng và ưu thế của đức
tin.
Trước khi nhấn
mạnh vấn đề đức tin, chúng ta ghi sơ qua
rằng rất có thể bài tường thuật muốn
trả lời hai ý kiến phản kháng:
a/ Chúa Phục Sinh
không phải làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một
ảo ảnh. Chúa phô bày những dấu vết về nhân dạng
–về thực tại hữu thể của Người:
đó là những thương tích của một người
đóng đinh trên thập giá, Chúa cho Tôma tra tay
vào những vết thương đó.
b/ Truyền thuyết mà người Do Thái
tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy
môn đệ lấy đi mất, là một chuyện dựng
đứng, bởi lẽ một số đông môn đệ
đã thấy Chúa, nhận đúng Chúa bằng xương bằng
thịt.
Giả thuyết này,
giả thuyết nọ cốt ý giải thích cái thực tại
hữu thể, nhưng không thay đổi được
gì trong việc kiểm chứng một sự kiện.
Đối với
chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất liên quan
đến đức tin:
1) Trước
đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào Thiên Chúa, vậy
hãy tin vào Ta (Ga 14,1). Đáp lại lời
đó của Thày, vang lên tiếng hô của Tôma: Lạy Chúa
tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng giữa Lời
Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của Tôma, một quá trình
dài đã được thực hiện. Có thể nói rằng một trong những mạch
văn chứa đựng tính chất bi kịch trong toàn bộ
Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ trong bước tiến
chật vật từ cứng tin vươn tới đức
tin. Người Do Thái sau này sẽ đứng
tại chỗ với lòng cứng tin. Đức tin chỉ
được vươn tới sau khi vượt thắng
bao khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng
người ưa phản kháng, khó thuyết phục.
Ta nhớ lại, ông đã từng xem việc Chúa đi
thăm mộ Lagiarô như một việc liều lĩnh
(Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng
ông không biết cuộc phiêu lưu của Người rồi
đây sẽ kết thúc ở đâu (Ga 14,5).
Vậy mà chính ông đã tuyên xưng đức tin bằng một
câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước.
Đây là một kết quả cho thấy cùng một lúc
lòng rộng rãi Chúa khi Người ban ơn đức tin,
và lời đáp đơn sơ của một tâm hồn
khó tính nhưng ngay thẳng.
Người ta sẽ
nhận xét: Tôma dễ có được niềm tin vì may mắn
được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận
định rằng các môn đệ khác cũng may mắn
như Tôma. Tuy nhiên đã có một khoảnh khắc
các ông nhận ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhiều hơn là một
người. Niềm tin của ông nằm trong quá trình
các ông thừa nhận Đức Giêsu Thiên Chúa.
Chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi
chúng ta vượt lên trên những gì chúng ta biết về
con người Giêsu lịch sử, để vươn tới
niềm tin vào Đức Giêsu Thiên Chúa.
2) Đức tin là một
sự “trở nên” liên tục, một sự tiến tới
không ngừng. Không bao giờ người ta đạt tới
hoàn hảo trong đức tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta
và là Thiên Chúa chúng ta. Một trong những bản dịch có
thẩm quyền nhất về câu 27, viết: Ngươi
đừng trở nên cứng tin, mà là người thành tín.
Cứng tin hay thành tín không phải là trạng
thái bất động của nội tâm. Từ chối không tin, là khiến cho đức
tin càng thêm khó. Ngược lại, chấp
nhận tin và làm cho đức tin càng dễ được
chấp nhận và sống động. Người ta
tiến hóa trong đức tin. Người ta trở nên cứng
tin hơn hoặc thành tín hơn.
Sự kiện này có
một hệ quả. Đức tin sống động thiết
lập trong con người một sự tăng trưởng
thiêng liêng. Sau một thời kỳ tăng trưởng,
cơ thể bị hao mòn dần rồi chết. Đức
tin là một thực tại thiêng liêng lớn lên và tăng
trưởng theo mức độ chúng
ta muốn sống trong đức tin. Đức tin không hao
mòn, nhưng phát triển và nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức tin nối
chúng ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận
của sự sống. Tuy nhiên chúng ta có trở nên mỗi
ngày một thành tín hơn hay không là tùy thuộc lòng ước
muốn, thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung
cách chúng ta nghênh tiếp đức tin.