Vấn đề TIN và ƠN
CỨU ĐỘ - Phải hiểu thế nào cho đúng?
Đăng ngày:
00:37 24-09-2011
Thư mục:
Giáo
lý
Hỏi: Xin cha giải thích
thêm về ý kiến cho rằng: chỉ cần tin là được cứu
rỗi.
Trả
lời: Như
tôi đã có lần giải thích là giữa Công
Giáo và anh em Tin Lành nói
chung, có sự khác biệt lớn về vấn
để đức tin và ơn cứu độ ( faith and salvation).
Anh
em Tin Lành, theo thần học của
Martin Luther, người chủ xướng Phong trào cải cách tôn giáo ở Đức năm
1517, cho rằng con người được cứu độ là
nhờ tin vào Chúa Kitô, chứ không
phải nhờ việc lành nào của cá nhân vì con người đã mất hết khả
năng làm điều thiện hảo do hậu quả của tội Nguyên Tổ.
Quan điểm
thần học này chỉ đúng một nửa mà thôi. Đúng vì dựa trên công nghiệp cứu
chuộc vô giá của Chúa Kitô, Đấng đã vui lòng chịu chết để
“làm
giá chuộc cho muôn người “
(Mt
20: 28).
Nghĩa là, nếu không có việc Chúa Kitô xuống trần gian làm Con Người và
chết thay cho mọi người, thì không ai có thể được cứu rỗi, vì
“Một
người duy nhất (tức Adam) mà tội đã xâm nhập trần gian và tội gây nên sự
chết; như thế sự chết đã lan tràn tới hết mọi người vì mọi người đã phạm
tội.” Rm 5:
12).
Sự
chết mà Thánh Phaolô nói ở đây, không chỉ là chết về thể lý, mà chết về
mặt thiêng liêng như Thiên Chúa đã cảnh cáo Adam Và Eva:
“...Ngày nào ngươi ăn
(trái cấm ) người sẽ phải chết.”
(St
2: 17),
tức là phải vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa là cội nguồn của mọi vinh phúc,
hoan lạc và bình an mà con người đã đánh mất sau khi phạm tội bất phục
tùng Thiên Chúa. Sự chết này “đã thống trị cả những
người đã không phạm tội bất tuân lệnh Thiên Chúa như
Adam.”
(Rm 5
:14).
Nhưng vì Thiên Chúa là tình thương, là Cha nhân lành, đầy lòng thương
xót nên Người có “nổi giận, giận trong
giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời.”
(Tv
30: 6).
Vì thế, Người đã sai Con một xuống trần gian để hiến mạng sống mình làm
giá chuộc cho muôn người. Cho nên, phải nói rằng công nghiệp cứu chuộc
của Chúa Kitô thật vô cùng cần thiết cho những ai muốn được cứu
rổi.
Tuy nhiên, vì con người vẫn còn ý muốn tự do (free
will)
mà Thiên Chúa phải tôn trọng cho con người sử dụng để, hoặc cộng tác với ơn Chúa và sống theo
đường lối của Người hầu được cứu độ, hay từ khước Chúa để sống theo ý muốn
của riêng mình, tự do làm những điều sai trái, gian ác và tội lỗi. Nghĩa
là từ khước ơn cứu độ của Chúa Kitô. Đây là thực tế mà không ai có thể
phủ nhận được.
Thật vậy, con người, dù bản chất đã bị băng
hoại nặng nề vì tội Nguyên Tổ,
nhưng vẫn còn ý muốn tự do để có thể nghe theo tiếng nói của lương tâm
mà làm những việc lương thiện,
tốt đẹp phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa để được chúc phúc và cứu độ,
hay ngược lại, làm những sự dữ
như giết người, cướp của, gian dâm, hận thù, nghen ghét, kỳ thị chủng
tộc, gây chiến tranh để cướp tài sản của nước khác …như thực trạng của
đời sống con người và thế giới ngày nay đang phơi bày ở khắp mọi nơi. Do
đó, không thể nói là con người đã mất hết khả năng làm điều thiện hảo và
chỉ còn trông nhờ vào đức tin để được cứu độ như anh em Tin lành chủ
trương.
Nói khác đi, mặc dù chỉ một mình Adam phạm tội,
nhưng hậu quả của tội này đã tràn lan đến hết cả nhân loại, là những
người không phạm tội như Adam, nhưng phải chịu chung hậu quả của tội
này. Nghĩa là mọi người sinh ra ở đời này đều phải chết đi sau một cuộc
sống dài ngắn trên trần gian này. Phải chết trước hết về mặt thể lý và
có thể cả về mặt thiêng liêng, tức là phải vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa
là nguồn an vui và hạnh phúc vĩnh cửu. Đây mới là cái chết đáng sợ cho
những ai có niềm tin vào sự sống đời đời trong Nước Thiên Chúa, sau khi
đã chấm dứt hành trình dương thế với cuộc sống dài,ngắn và tạm bợ trên
trần gian này. Do đó, để được sống vĩnh
cửu với Thiên Chúa trên Nước Trời, con người trước hết phải được tái
sinh qua Phép Rửa để được tẩy xóa mọi tội – từ tội
Nguyên Tổ cho đến mọi tội cá nhân đã sa phạm cho đển lúc được rửa
tội.
Nhưng rửa tội rồi, không có nghĩa là chắc chắn sẽ được cứu
rỗi, mà mới chỉ là bước đầu cần thiết cho một tiến trình cải hóa hay
biến đổi (conversion, transformation)
để trở nên con người mới hoàn toàn, hay nói theo Thánh Phaolô là
“phải
mặc lấy con người mới, là con
người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh
thiện.”
(Ep
4: 24).
Con
người mới, mà Thánh Phaolô nói trên đây, là người biết sống theo Thần Khí để trở nên con cái
Thiên Chúa nhờ ơn tái sinh của phép rửa. Nhưng được tái sinh rồi thì
phải sống những đòi hỏi của của ơn này, là tin yêu Thiên Chúa trên hết
mọi sự, tin Chúa Kitô đã cứu chuộc loài người qua khổ hình thập giá,
cương quyết từ bỏ ma quỉ và mọi tội
lỗi..Có như thế, mới xứng đáng được hưởng công ơn cứu chuộc của
Chúa Cứu Thế Giêsu.
Như thế, tin Chúa Kitô như anh em Tin lành chủ trương,
thì mới chỉ là một điều kiện thiết yếu, nhưng chưa đủ để được
hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Muốn được hưởng, thì phải sống niềm tin ấy
cách cụ thể như thánh Gia-Cô- Bê Tồng
đồ đã dạy như sau: “... đức tin không có hành động, thì quả là đức tin
chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: Bạn, bạn có đức tin, còn tôi
tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế náo là tin mà không có hành
động. Còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin
rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin
như thế, và chúng run sợ. Hỡi người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết
rằng đức tin không có hành động là vô dụng không ? Ông Abraham tổ phụ
chúng ta đã chẳng được nên công chính nhờ hành động khi ông hiến dâng
con mình là I-xa-ác trên bàn thờ đó sao? Bạn thấy đó: đức tin hợp tác
với hành động của ông, và nhờ hành động mà đức tin nên hoàn hảo… Anh em
thấy đó, nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải
chỉ nhờ đức tin mà thôi. (Gc 2:
17-24).
Như vậy, thử hỏi những kẻ đang giết người, đang
cướp bóc, chà đạp quyền sống của con người, đang ngụp lặn trong
“văn
hóa sự chết”
để tôn thờ vật chất, tiền bạc và mọi vui thú vô luân vô đạo, thì tuyên
xưng đức tin vào Chúa Kitô, nào được ích gì?
Ngược lại, nó còn là một sự sỉ nhục lớn lao cho niềm tin ấy là
khác, vì không thể miệng nói tôi tin Chúa Kitô là Cứu Chúa của tôi,
Alleluia Alleluia!, mà chân tôi lại bước trên con đường dẫn đưa đến sự
hư mất đời đời, vì đời sống thực tế của tôi – từ nội tâm ra đến hành
động bên ngoài - lại hoàn toàn đối nghịch hay mâu thuẫn với lời tuyên
xưng đức tin qua môi miệng, như ánh sáng đối nghịch và mâu thuẩn với
bóng tối.
Có ai bị bắt buộc phải gian ác, trộm cắp, giết người,
hay dâm đãng đâu? Hay ngược lại, người ta đã tự do làm những việc tội
lỗi này ở khắp mọi nơi khiến phải tù tội theo pháp luật của xã hội và
phán đoán nghiêm khắc của lương tâm.
Con người chỉ có thể đóng
kịch, giả dối với nhau để lừa gạt nhau, nhưng không ai có thể đóng kịch
với Thiên Chúa là Đấng nhìn thấu tận đáy lòng mọi người, nên tuyệt đối
không ai có thể dối gạt được Chúa về bất cứ điều gì. Nghĩa là, nếu không
thực tâm yêu mến Chúa và tha thiết tuân giữ mọi thánh chỉ hay giới răn
của Người, thì dù có tuyên xưng, ca tụng Chúa qua môi miệng cách nào đi
nữa, thì cũng vô ích mà thôi, vì lẽ “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa!
Lậy Chúa, mà được vào Nước Trời cả đâu, mà chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.”
(Mt
7: 21)
Nói rõ hơn, nếu tin có Chúa là Đấng giầu lòng xót thương, thì
không thể căm thù ai và nhất là, muốn sát hại người khác, giết thai nhi
vì bất cứ lý do gì. Cũng vậy, tin Chúa là Đấng công chính và thánh
thiện, thì không thể bất công và bóc lột ai, nhất là không thể buông
chiều theo xác thịt để tìm vui thú vô luân vô đạo đầy rẫy trên thế giới
ngày nay.
Nếu đời sống thực tế mà không phản ảnh trung thực niềm
tin vào Chúa Kitô, Đấng đã hy sinh chịu chết cho muôn người được cứu
rỗi, thì đức tin ấy sẽ không giúp ích gì cho ai, như thánh Gia-cô-bê
Tông Đồ đã dạy trên đây.
Mặt khác, liên quan đến vấn đề cứu rỗi,
có vấn nạn được nêu lên là tại sao một mình Adam-Eva phạm tội, mà mọi
người phải chịu hậu quả, như vậy có công bằng và hợp lý không?
Dĩ
nhiên, nếu lý luận theo hiểu biết và tâm lý con người, thì đó là điều
bất công cho cả nhân loại đã không phạm tội cùng với Adam. Nhưng nhìn từ
gốc độ thần học và kinh nghiêm thực tế , thì phải nói rằng hậu quả của
tội Adam không phải là trở ngại duy nhất cho con người được hưởng ơn cứu
chuộc của Chúa Kitô.
Cho đến nay, giáo lý của Giáo Hội vẫn dạy:
có sự kiện sa ngã của nguyên Tổ loài người và để lại hậu quả cho toàn
thể con người sinh ra trong trần thế này như bằng chứng Kinh Thánh cho
thấy(x. Rm 5:
12-15),
nhưng tội này và mọi tội cá nhân khác,
đều được rửa sạch hay tha thứ qua bí tích Thanh Tẩy (Rửa Tội), và nhờ
đó, con người được tái sinh trong sự sống mới và trở nên con cái
Thiên Chúa như Thánh PhaoLô đã dạy (x. Rm 8 :
14-17).
Nhưng
như đã nói ở trên, rửa tội xong, không có nghĩa là lấy
được visa
để vào ngay Nước Trời (trừ ai chết ngay sau
khi được rủa tội),
hưởng phúc an vui với Thiên Chúa. Ngược lại, người ta còn tiếp tục sống
trên trần thế này một thời gian dài ngắn tùy số phận của mỗi người. Và
bao lâu còn sống trong thân xác có ngày
phải chết đi này, thì bấy lâu người ta còn có thể phạm tội lại nhiều lần
nữa, nên phải luôn chiến đấu chống lại mọi cám dỗ của ma quỉ, xác thịt
và thế gian để sống trong tình yêu và ơn phúc của Chúa, chờ ngày được
vui hưởng Thánh Nhan Người trong Nước hằng
sống.
Nghĩa là, nếu dân Tân Ước, tức dân mới của
Chúa được tái sinh qua Phép Rửa,
mà không quyết tâm sống những cam kết khi được rửa tội (Baptismal
promises)
là yêu mến Chúa trên hết mọi sự, từ bỏ ma quỷ và mọi quyến rũ của chúng,
thì Phép Rửa sẽ trở nên vô ích cho ai đã lãnh nhận. Trong trường hợp
này, công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Kitô cũng không giúp ích gì
cho những ai không xử dụng ý muốn tự do của mình để cộng tác với ơn
thánh và sống đời sống mới thực sự công chính và thánh thiện như bí tích
Thanh Tẩy đòi hỏi. Phải có thiện chí muốn cộng tác với ơn Chúa thì đức
tin mới thực sự hữu ích cho kẻ tuyên xưng, như Thánh Gia-cô-bê đã
dạy.
Nói thế, không có nghĩa là ơn cứu chuộc của Chúa Kitô chưa
đủ cho con người được cứu độ. Ngược lại, phải xác tín rằng công nghiệp
của Chúa đã quả đủ cho con người được cứu rỗi. Nhưng ơn cứu độ ấy không
tự động đến với hết mọi người, dù muốn hay không. Trái lại, nếu con người không ước muốn được cứu độ thể
hiện qua thái độ thiếu thiện chí cộng tác với ơn Chúa để sống đời sống
mới “ theo Thần Khí, và như
vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính
xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí
lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch
nhau, khiến anh em không làm được điều anh em mong muốn. Những việc do
tính xác thịt gây ra thì ai cũng biết rõ: đó là dâm bôn, ô uế, phóng
đẫng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh
chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, chè chén… Tôi bảo trước cho mà biết,
như tôi đã từng bảo: những kẻ làm các việc đó, sẽ không được thừa hưởng
Nước Trời.”
(Gl
5:16-21)
Thật
vậy, Chúa Kitô đã chết để đền tội thay
cho cả loài người, nhưng Chúa không tiêu diệt hết mọi mầm mống, hay nguy
cơ của tội còn đầy rẫy trong thế gian và trong bản thân mỗi người chúng
ta, để chúng ta phải chiến đấu chống lại chúng cho đến hơi thở cuối
cùng, để cộng tác với ơn Chúa hầu được cứu độ, tức là hưởng ơn cứu chuộc
của Chúa Kitô để sống hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa trên Nước
Trời.
Cứ nhìn vào thực trạng của thế giới ngày nay và thực
trạng sống đạo của các tín hữu ở khắp nơi trên thế giới, cũng quá đủ cho
thấy là công nghiệp cứu chuộc vô giá của Chúa Chúa Kitô đã và đang trở
nên vô ích cho biết bao người.
Đây là thực trạng đó:
Thế
giới mà chúng ta đang sống hiện nay, là một thế giới muốn
“Phi
Kitô hóa”
(a
de-Christianized world),
tức là loại bỏ mọi ảnh hưởng của Kitô-giáo để cho con người mặc sức ngụp
lặn trong “văn hóa sự
chết”,
chối bỏ Thiên Chúa để tôn thờ vật chất, tiền bạc và vui thú vô luân, vô
đạo, thể hiện rõ nét trên mọi bình diện cá nhân, quốc gia và quốc
tế.
Trước hết ,trên bình diện cá nhân, có những người mang danh
Kitô hữu (Christian)
hay Công giáo, nhưng đời sống và hành động của họ lại mâu thuẫn hoàn
toàn với nội dung của danh xưng này. Cụ thể, có biết bao người đã được
rửa tội khi còn bé, hoặc mới gia nhập Giáo Hội sau này qua Phép Rửa,
nhưng nay đã rời bỏ Giáo Hội và sống phản chứng qua những việc họ làm
như cờ bạc, oán thù, gian dâm, thay chồng, đổi vợ, tôn thờ vật chất và
vui thú vô luân…
Lại nữa, có những nhiều người Công giáo không có giờ đi dự Thánh
lễ ngày Chúa nhật và năng xưng tội, rước Mình Máu Thánh Chúa, nhưng lại
có dư giờ để đi cờ bác, vui chơi, nhẩy nhót ngày đêm! Có những
dân biểu, nghị sĩ, thống đốc, thị trưởng nghị viên công giáo đã bỏ phiếu
ủng hộ việc phá thai và trợ cấp tiền của Liên bang cho các tổ chức phá
thai (planned
parenthood)
và hợp thức hóa hôn nhân đồng tính (same sex
marriage),
và lại nhắm mắt, bịt tai trước sự lan tràn của làn sóng vô thần, vô
luân, phim ảnh dâm ô và bạo động trên Internet, Video, DVD, xô đẩy biết
bao người lớn nhỏ vào hố sâu tội lỗi. Tệ hại hơn nữa là , họ còn cấu kết
với các tập đoàn tài phiệt để bóc lột dân nghèo qua việc làm ngơ cho bọn
cầm đầu kỹ nghệ xăng dầu tự ý lên giá xăng dầu để vơ vết thêm nhiều của
cải, bắt chấp khó khăn, khốn cùng của đa số người dân nghèo hay người có
lợi tức thấp.
Trên bình diện quốc gia và quốc tế, những kẻ tham
quyền cố vị đã cố kéo dài sự cai trị hà khắc dân lành và mặc sức vơ vết
tài sản của quốc gia để làm giầu cho mình và cho tập đoàn thống trị độc
ác của mình, sẽ không thể xứng đáng được lãnh ơn cứu chuộc của Chúa Cứu
Thế Giêsu, cho dù có ai trong bọn họ tự xưng là Christian (Kitô
hữu) thì danh xưng này cũng không giúp ích gì cho họ khi mà đời sống và
hành động của họ không phản ảnh trung thực giá trị của danh xưng
đó.
Tin Chúa là Đấng
cứu chuộc con người, thì phải thành tâm muốn đi theo Chúa là Đường, là
sự thật và là sự sống (x.
Ga 4: 6).
Chỉ có một con đường, là chính Chúa Kitô, mới dẫn ta đến cuộc sống hạnh
phúc đời đời với Thiên Chúa trong cõi vĩnh hằng, “sau
khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần thế
này.”
(2
Pr 1: 4).
Tóm
lại, không thể ngoài miệng nói tin Chúa, mà trong lòng còn chứa chất
những âm mưu độc ác, những oán thù, chia rẻ, những đam mê tiền của và
vui thú vô luân, vô đạo...
Không thể tham dự Thánh lễ hay những
buổi thuyết giảng, cầu nguyện và miệng lâm râm kêu
lên Alleluia
Alleluia,
tôi tin Chúa Kitô là Cứu Chúa của tôi, nhưng khi ra khỏi nhà thờ hay nơi
thuyết giảng, thì lại tiếp tục cuộc sống mâu thuẫn hay đối nghịch với
những lời ca tụng Chúa trong buổi nghe giáng Kinh Thánh, hoặc tham dự
Thánh Lễ .
Đức tin chân
chính và hữu hiệu đòi hỏi phải có việc lành cụ thể để chứng minh thì mới
xưng đáng được hưởng ơn cứu độ của Chúa Cứu Thế Giêsu. Nghĩa là không
thể tách rời đức tin ra khỏi đời sống thực tế, thể hiện qua lời nói và
việc làm của người tin được.
Linh mục Phanxicô
Xaviê Ngô Tôn Huấn
|