ĐỨC GIÊSU BIẾN ĐỔI HÌNH DẠNG
(Máccô 9,2-10
– Lễ Hiển Dung -
B)
1.-
Ngữ cảnh
Cuộc
đời của Đức
Giêsu là
một
hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả Mc
đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ “con đường” (hodos),
đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường
xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi,
Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các
môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh
của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người
phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng
lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.
Biến
cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là
cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được
trực
tiếp liên kết với
phân đoạn Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó
(8,27–9,1).
Chúng
ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như là cái trục của
TM
Mc.
Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể dễ dàng tách
khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần kề (9,1)
với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng cũng
như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật
chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai:
9,1: “Và Người
nói”; 9,2: “Và
Người
lên núi…”; 9,11: “Và
các
ông hỏi …”).
Sau
khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo
Người, Đức Giêsu thêm: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở
đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên
Chúa đến, đầy uy lực” (9,1). Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa
đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn “uy lực” của Thiên Chúa thì sẽ
được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x.
12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).
Nếu
tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc
Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các
ngôn sứ Israel
ngày
xưa là một đề tài được Mc
thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc
tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi
đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml
3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc
1,2-8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở
lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự
nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước
Thiên Chúa đến.
Vậy,
bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do nền thần học của tác giả
và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một
đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy, tác
giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm của
Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện của
Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia sau
đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long
trọng.
2.- Bố
cục
Bản
văn có thể chia thành ba phần:
1)
Đức
Giêsu đưa
ba môn đệ đi (9,2a-b);
2)
Đức
Giêsu biến
đổi hình dạng (9,2c-8);
3)
Đức
Giêsu truyền
lệnh giữ kín những điều đã biết (9,9-10).
Một
số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự “đóng khung” vừa chính xác vừa tinh
tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, Mc
viết rằng “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người
đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”.
Đàng khác, ông nói rằng “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa,
chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”: kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài
cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM
Mc,
là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải
riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Mc
cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn
nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc
dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba
môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng
nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.
3.-
Vài điểm chú giải
-
sáu
ngày sau (2):
Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như Môsê, Đức
Giêsu lên
núi với
ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên
Chúa
nói với
Môsê; qua sáu ngày, Đức
Giêsu lên
núi và có tiếng Thiên
Chúa
phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết “sáu ngày sau” mà cho rằng
đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền thống dành ngày thứ
bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây, cũng giống như
trong
Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên
Chúa.
-
một ngọn núi cao:
Ta không thể xác định đây là ngọn núi nào, nhưng
nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các cuộc
thần hiển: Thiên
Chúa
nói với
Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra với
Êlia trên núi (1 V 19,8).
-
Người
biến đổi hình dạng:
Không có kinh nghiệm nào trong
quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình dung sự
biến đổi hình dạng của Đức
Giêsu ở
đây. Điều đặc
biệt là
khi Người ở trong
vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có “y phục rực
rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 3).
Thật ra đây là một “ánh sáng chói lọi”, là màu sắc của những thực tại thiên
quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con
người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị động (c. 2:
metemorphôthê,
aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong
biến cố này.
-
thấy
ông Êlia cùng ông Môsê
(4): Theo truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong
lịch
sử
dân Chúa.
Thứ tự Êlia–Môsê của riêng tác giả Mc
tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM
II.
Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê.
Tuy nhiên, c. 5, với
tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà Mc
chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ “Nước Thiên Chúa đã đến
gần”. Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa
giới thiệu với tư cách và số phận của Người.
-
đàm đạo với
Đức
Giêsu:
Mc
không cho biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và
Môsê.
-
chúng con xin dựng ba cái lều
(5): Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với
nhau, ba tông đồ, những con người “phàm phu tục tử”, ở cách xa. Do đó, khi ngỏ
lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người
là “Thầy” (rabbi)
và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình.
Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy
nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử
của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel
đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa
(Yhwh),
và được Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc
mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ
mừng Đức Chúa.
Lễ này có thể trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó
bao trùm những năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ
nhung đời sống du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để
kết thúc chu kỳ Lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ
này có chứa nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của Mc
là cho thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng
tỏ ông không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên
giới, ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi
vào.
-
kinh hoàng
(6): Tác giả đã nhận định: “Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông
kinh hoàng” (9,6; xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh
hoàng này (tương tự sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ,
x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức
thiên sai của những lời nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai
cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều
mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng.
Và khi Mc
ghi nhận ở c. 8 rằng “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn
Đức Giêsu với các ông mà thôi”, ta lại không nghe ra như một lời
trách nhắm đến đến các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng
tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng sống cùng các thánh của
Cựu
Ước
và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ
này tự hỏi câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về
một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái
Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì
cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên
trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi
sống lại? Mc
đã nêu bật sự tăm tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x.
4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).
-
Từ
đám mây (7):
Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê
đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và
Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của
Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề
của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực
tại trần thế với những thực tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu
đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào
hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức
Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển
chọn.
-
Đây là con Ta yêu dấu (7):
Sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên
Chúa
vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng của Phêrô.
So
với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không thêm gì mới về Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại một điều chỉnh quan
trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng
Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên
Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh quang của Đức
Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu
là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã có
từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc
truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là
Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất
của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự
vào.
-
truyền cho các ông không được
kể
lại (9):
Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong
Mc,
lệnh này có một
ý
nghĩa căn bản cho cả các lệnh khác với
cùng một
giới
hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường thuật Hiển Dung về
Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức
Kitô và
lời loan báo về Triều Đại Thiên
Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người
được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả
dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh truyền (ton
logon ekratêsan
cũng có thể có nghĩa là là “ghi nhớ ký ức”, theo kiểu nói La-tinh
[memoria]
tenere),
nhưng tranh luận xem “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa
là “cuộc sống lại của Đức Giêsu”.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
*
Đức
Giêsu đưa
ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc
Hiển Dung lại là một
truyện
nữa trong
đó Đức Giêsu
đưa
riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái
Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một
quả
núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với
Thiên
Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc
sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn
toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn
cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn
tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi
một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào
nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi
mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức
Giêsu.
*
Đức
Giêsu biến
đổi hình dạng (2c-8)
Đức
Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là
nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương
diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực
tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới
hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức
Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những
các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời
gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương
mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của
Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ
mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài.
Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và
hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể
nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người
cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải
đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời với các môn
đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là
Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với
Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các
ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan
của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên
Chúa.
Sau
khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi
tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất,
Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí mật đích thực của
Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ
biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa
như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì
chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa
hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa,
Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên
Chúa (x. Ga 1,18; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê
và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.
Cuộc
Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ
mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của
Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn
đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ
hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ ta hiểu Thiên
Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau
đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu; Đức
Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu,
tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những
điều đó trong cuộc Hiển Dung.
*
Đức
Giêsu truyền
lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)
Sau
mạc
khải
ấy, Đức
Giêsu truyền
các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc
Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Đức
Giêsu,
trước khi có thể hiểu được
bản
chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên
Chúa
của Người. Khi đó, họ sẽ không được
thinh
lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+
Kết
luận
Nơi
Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ
những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ
nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải
cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà
từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được
cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Những hoàn cảnh và điều kiện trong
đó xảy ra mạc
khải
cho ba môn đệ cũng có một
ý
nghĩa cho việc chúng
ta
gặp gỡ riêng tư với
Đức
Giêsu và
với
Thiên
Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu
hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu:
“Đây là Con Ta yêu dấu”. Người không phải là Con Thiên Chúa
theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu
của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của
hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên
Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc
một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những
hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến
nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu
với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thì giờ
thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại “Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa”, khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với
chúng ta. Chúng ta phải “vâng nghe lời” Người và không được phép im lặng nữa.
Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những
người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền
của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận
thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này
trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho
hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá
sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm,
và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích
thực.
Lm
PX Vũ Phan Long, ofm
|