THỨ TƯ LỄ TRO, LỊCH SỬ VÀ Ý
NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ
Lm. Phanxico
Borgia Trần Văn Khả
Ngày Thứ Tư Lễ
Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng
thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và
sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh
thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận
con người qua biểu hiệu "bụi tro"
được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày
Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài
viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý
nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ
Tư Lễ Tro.
1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro
Những Quy luật
tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày
Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt
đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay
trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư
đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay" (số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý
nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm
phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh.
Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt
đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu
phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ
nghi làm phép tro và xức tro.
Trong truyền thống phụng vụ từ
thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là
một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề
vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày
này là "Ðầu Mùa Chay" (Caput ieiunii), hay " Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày" (Caput
Quadragesimalis). Việc ăn chay trong
Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả
(590-604).
Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua
thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi
từ một nghi thức nghi thức thống hối trong
định chế về tập tục thống hối
công cộng thời xưa. Lịch sử phụng
vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích
thống hối và hòa giải, cũng như định
chế Giáo hội về một số sinh hoạt
đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho
hối nhân công cộng đã phạm một số tội
nặng cách công khai, mà mọi người đều
biết, như chối bỏ đức tin, giết
người, ngoại tình . . . Những người này
bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể
được nhận lại trong cộng đoàn, họ
phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa
ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ
nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ
tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi
xưng thú tội của mình, họ sẽ được
Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình,
rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà
thờ và được chỉ định đi tới
một tu viện để ở đó và thi hành một
số việc thống hối đã ra cho họ. Vào
sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ
tập lại tại nhà thờ chính toà, được
Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống
hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc
lời xá giải tội lỗi của họ để
giao hòa với cộng đoàn. Từ đây
họ được quyền tham dự các buổi cử
hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các
hối nhân công cộng tập họp tại một số
nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành
phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung thánh
đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan
Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như
vừa nói trên đây.
Về sau định chế thống hối
công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro
vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro.
Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận
tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng
và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng
thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có
việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh
lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh
nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi
cử hành việc rước lễ.
Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại
Rôma, Ðức Giáo hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân
tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép
tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất
cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina
ở đồi Aventino. Trong khi đ
kiệu, Ðức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các
thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm,
đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà
thờ thánh Sabina, Ðức Giáo hoàng đọc lời xá
giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay
đổi đời sống, Xức tro và ăn
chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì
Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha
thứ mọi tội khiên" (Immutemur, xc.
Ge 2, 13). Sau đó ngài
cử hành thánh lễ. Ðó là trạm
đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ
Tư Lễ Tro, Ðức Giáo hoàng cũng đến làm phép
tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước
đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh
Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh
nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn
thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang
tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không,
thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).
Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam
Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho
tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ
tro, vị linh mục đọc lời :
"Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi"
(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá
đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá
năm trước để lại. Trước công
cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ
tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma
được tu chính, thì lễ nghi này được
cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài
câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức
dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn
năn sám hối và đón nhận Tin Mừng" (Mc 1,15). Với công thức mới
này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro"
đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là
việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh.
Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy
Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha
thứ cho kẻ biết ăn năn.
Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng
phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này,
để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay
thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền,
xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua
của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống
và hiển trị muôn đời" (còn có một
lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).
2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ
Tro
Trong Cựu
Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm
được dùng để thực hành và biểu lộ
lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.
Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải
chết (xc. St 3,18.27;
Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith
4,16; 9,1).
Trong truyền thống các đan sĩ và
tụ viện, tro được dùng để nói lên
mối liên hệ với sự chết và sự khiêm
nhường thống hối trước mặt Chúa.
Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có
tục lệ tại một số nơi, muốn nằm
trên đống tro với chiếc áo nhặm để
chết. Thánh Martino thành Tours
bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho
một tu sĩ là việc nằm chết trên đống
tro bụi". Các vị này lấy tro
đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ
Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn
trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó
khi hấp hối và khi chết. Các tu
sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của
ăn. Ðó là một hình thức hãm mình
nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.
Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội
đã đặt nền tảng cho việc thống
hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên
tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội
nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa,
trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải
chết như là một hậu quả của tội
lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại"
một cách tận căn, như ý
nghĩa diễn tả qua từ "canh tân" trong ngôn
ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360
độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro,
để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách
tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được
Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa
đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền
tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của
ngày Thư Tư Lễ Tro.
Cùng với một số biểu hiệu khác
được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo
lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa
trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro
cũng được dùng để cho thấy tính cách
thống hối của Mùa Chay và thân phận của con
người hay chết.
Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày
Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một
thời điểm quan trọng đang bắt đầu
liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó
là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này
cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải
đi theo trong thời gian suốt Mùa
Chay.
Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ
sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín
hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối,
khi suy tư về thân phận con người, về
lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết
phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy
nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức
khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng
về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và
Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại
lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài,
như thống hối công cộng, như mặc áo
nhậm, như đi chân không trong cuộc hành hương,
vv. không còn được thực hiện như xưa, vì
hoàn cảnh xả hội đổi thay, nhưng thái
độ và ý chí thống hối, canh tân trở về
vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi
người. Mỗi người sẽ tự đưa ra
cho mình một số những thực hành thống hối
trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ
ý nghĩa của mùa chay
Lm. Phanxico
Borgia Trần Văn Khả
|