Giáo
chủ Cộng Sản: Karl Marx là người thờ quỷ Sa Tăng
Tanyth
Lawless (bạn đọc danlambao) - Người Trung Quốc và Việt Nam từ nhỏ đến lớn bị cưỡng chế
truyền bá lý luận chủ nghĩa Marx, gọi là triết học Marx-Lenin – bác bỏ sự tồn
tại của thần linh (vô thần luận) và tôn thờ vật chất. Tuy nhiên bản thân chúng
ta lại không hề chân chính hiểu rõ Marx. Trong viện nghiên cứu Marx ở Nga
có hơn 100 đầu sách do Marx viết, tuy nhiên chỉ có 13 quyển được xuất bản. Marx
viết nhiều như vậy, rốt cuộc là về điều gì? Vì sao không cho xuất bản? Muốn
giấu giếm điều gì đây?
Gần đây, xem thấy trên mạng lưu
truyền một số bài viết về Marx và Sa-tăng giáo, tôi đã tìm được mấy cuốn sách
tiếng Anh nói về sinh hoạt và công tác của Marx [1,2], nhờ đó mới biết bình
sinh không để nhiều người biết của Marx.
Ngày 5 tháng 5 năm 1818, Marx sinh
ra trong một gia đình luật sư người Do Thái giàu có. Khi Marx lên 6 tuổi, gia
đình ông ta quy y Cơ Đốc giáo. Thời trẻ Marx là một giáo đồ Cơ Đốc và tín
ngưỡng Thượng Đế. Sau khi tốt nghiệp trung học, thành tích của Marx rất tốt và
tất cả đều xem ra bình thường. Cha Marx cũng đặt kỳ vọng rất lớn vào ông ta.
Tuy nhiên trong thời gian học đại
học, tính cách Marx biến đổi lớn, trong tâm đầy rẫy thù hận và cuồng vọng tự
đại, khiến cha mẹ ông ta trở nên bất an và đau khổ.
Với sự giàu có của gia đình, trong
thời gian Marx học đại học, cha Marx đã cấp cho ông ta rất nhiều tiền để tiêu
xài [3]. Tuy nhiên Marx và Jenny (Jenny von Westphalen) đã bí mật đính hôn (gia
cảnh Jenny tốt hơn Marx, người vừa cao vừa xinh xắn, là đối tượng theo đuổi của
nhiều chàng trai). Chiếu theo lý thường, cuộc đời Marx lúc này lẽ ra nên theo
chiều hướng tích cực. Vậy vì sao Marx bỗng chốc trở nên đầy thù hận? Nguyên là
sau khi vào đại học, Marx đã gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do
Joanna Southcott chủ trì [2] (người tự xưng là có giao tế với ma quỷ Shiloh),
và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ.
Theo tôn giáo Tây phương giảng,
Sa-tăng là thiên sứ sa ngã (fallen angel), từ đó trở thành ma quỷ, chứa đầy thù
hận và tật đố với Thượng Đế (God). Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối
với Thượng Đế, đồng thời cũng đầy thù hận đối với nhân loại (bởi vì Thượng Đế
đã sáng tạo ra loài người).
Giai đoạn đầu học đại học, Marx dự
định học tập thơ ca và hí kịch. Từ một số bài thơ và kịch bản mà ông ta viết,
người ta có thể thấy sự thù hận của Marx đối với Thần và nhân loại. Ví như
trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair) biểu đạt sự tuyệt
vọng của bản thân, Marx viết: “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!”
(Nothing but revenge is left to me!), “Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời
cao, Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở trên đỉnh, Cho bức tường thành của sự
mê tín khủng khiếp, Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ ngồi trên…” (I shall
build my throne high overhead, Cold, tremendous shall its summit be. For its
bulwark– superstitious dread, For its Marshall–blackest agony.) Trong bài thơ
này, tác giả đã bày tỏ tâm tư: Mơ ước trở thành Đại vương Khủng bố để hủy diệt
cả thế giới. Marx còn thích lặp lại câu nói của ác ma Mephistopheles: “Hết
thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Trong bài thơ “Sự kiêu ngạo
của con người” (Human Pride), Marx viết: “Rồi ta sẽ quăng đôi
găng tay sắt lên, Khinh bỉ trước khuôn mặt mở rộng của thế giới, Dưới người lùn
khổng lồ khóc thút thít, Lao xuống, nhưng không thể diệt niềm hạnh phúc của ta.
Giống như Thượng Đế mà ta dám làm, Xuyên qua vương quốc hoang tàn trong khải
hoàn, Mỗi lời nói là chiến công và ngọn lửa, Và ngực ta sẽ giống của Đấng Tạo
Hóa.” (Then the gauntlet do I fling, Scornful in the World’s wide open
face. Down the giant She-Dwarf, whimpering, Plunges, cannot crush my happiness.
Like unto a God I dare, Through that ruined realm in triumph roam. Every word
is Deed and Fire, And my bosom like the Maker’s own.) Tác giả bài thơ này đã có
được khoái cảm từ việc hủy diệt thế giới, mức độ thù hận và cuồng vọng có thể
thấy được từ đó.
Mikhail Bakunin (một người Nga theo
chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo
đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, viết: “Người ta nhất
định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự
khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và
điên cuồng”.
Có một điểm cần phải chỉ rõ ở đây,
đó là thành viên giáo hội Sa-tăng không phải là người theo chủ nghĩa duy vật;
họ không chỉ không vô thần, mà còn tin rằng có sự sống sau khi chết. Tín đồ
Sa-tăng giáo tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua
Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Ví dụ trong
kịch bản “Oulanem” nói về quan hệ giữa mình và Sa-tăng giáo (“Oulanem” là một
danh xưng nghi thức tôn giáo của Sa-tăng, “Oulanem is a ritualistic name for
Satan [2]“), Marx không phủ nhận sự sống sau khi chết, mà cho rằng sự sống sau
khi chết chứa đầy thù hận với Đấng Tối Cao. Trong vở kịch này, tác giả đã bán
linh hồn mình cho ma quỷ [1].
Sau khi Marx chết không lâu, người
hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth nói: “Ông ta (Marx) là một người rất
kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây
băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”. Theo phân tích, nghi thức cầu
khấn của Marx không phải là của Do Thái giáo (cũng không phải của Cơ Đốc giáo),
mà rất có thể là một loại nghi thức ma quỷ bí mật nào đó của Sa-tăng giáo. Thực
sự Marx không phải là một người vô thần.
Tháng 3 năm 1854, người con trai
Edgar của Marx đã xưng hô như sau trong câu mở đầu bức thư gửi cha mình: “Ác
quỷ thân ái của con (My dear devil)”. Bởi vì giáo đồ Sa-tăng giáo chính là
gọi người mình thương yêu như vậy, liệu có thể là trùng hợp chăng? Không chỉ có
vậy, người con rể yêu quý Edward Eveling của Marx cũng là một tín đồ Sa-tăng.
Người bạn thâm giao Proudhon (nhà tư tưởng xã hội chủ nghĩa người Pháp) của
Marx cũng sùng bái Sa-tăng như vậy. Nhà thơ Đức nổi tiếng Heinrich Heine, một
người bạn thân khác của Marx, cũng là một người sùng bái Sa-tăng, hơn nữa trong
thơ còn công khai ca ngợi Sa-tăng, nói Sa-tăng “là một người đàn ông, khả ái mê
ly”.
Mặc dù Marx công khai bày tỏ sự thù
hận đối với chủ nghĩa tư bản trong các tác phẩm của mình, nhưng ông ta lại đầu
cơ cổ phiếu vào thị trường Luân Đôn và thua một lượng lớn tiền. Lúc may mắn
thắng được, tháng 6 năm 1864, Marx viết trong bức thư gửi người chú Leon
Phillips rằng ông ta thắng được 400 bảng Anh trên thị trường cổ phiếu [2].
Marx được trợ giúp một lượng lớn
tiền từ Engels, nhưng rõ ràng là vẫn không thỏa mãn. Khi một người bác vợ 90
tuổi sắp chết, Marx viết như sau trong bức thư gửi Engels: “Nếu như con chó
già (old dog) đó chết, thì tôi không ngại gì nữa”. Engels phúc đáp như sau:
“Chúc mừng ông, chướng ngại đối với di sản kế thừa của ông mắc bệnh rồi, tôi hy
vọng ông ta vạ đến nơi rồi”. Sau khi cụ già 90 tuổi mà Marx gọi là “con chó
già” qua đời, Marx lại viết: “Đây là một việc mừng. … Nếu không phải con chó
già đó đem một đống của giao cho bà chủ giữ nhà, thì vợ tôi còn có thể được
nhiều hơn”.
Marx và Engels đều là phần tử trí
thức cao cấp, thế nhưng người ta phát hiện rằng, thư từ qua lại giữa họ đầy rẫy
những từ ngữ hạ lưu thấp hèn. Ngoại trừ một lượng lớn ngôn từ dâm ô ra, giữa họ
không hề có bất cứ bức thư nào trao đổi về niềm mơ ước chủ nghĩa xã hội nhân
đạo.
Giờ lại xem thái độ của Marx đối với
mẹ và vợ mình. Tháng 12 năm 1863, Marx viết trong bức thư gửi Engels: “Hai
giờ trước, tôi đã nhận được một bức điện báo, nói mẹ tôi đã chết rồi. … dưới
rất nhiều tình huống, điều mà tôi cần không phải là một người đàn bà già đó, mà
là những cái khác. Tôi nhất định phải lên đường đến Trier để tiếp thu di sản
(ghi chú của người viết: Trier là nơi Marx sinh ra).” Điều mà Marx quan tâm chỉ
là di sản mà thôi. Ngoài ra, quan hệ giữa Marx và người vợ Jenny là không tốt, bà
đã hai lần ly thân ông ta, nhưng sau đó lại trở về. Khi Jenny chết, Marx thậm
chí còn không tham dự lễ tang.
Marx không bao giờ thực hiện nghĩa
vụ nuôi gia đình; bất chấp mình có đủ tiền, Marx vẫn dựa vào Engels để sinh
hoạt. Marx và vợ sinh được sáu người con, trong đó ba người chết vì thiếu dinh
dưỡng, còn hai người con gái và một con rể thì tự sát (người con gái Eleanor
từng nói khi Engels sắp chết rằng cô suy sụp khi biết Marx có con riêng và sau
đó tự sát) [2]. Marx còn nát rượu nghiêm trọng [1].
Marx đối với người thân của chính
mình còn tuyệt tình như vậy, đối với người khác thì có thể tưởng tượng được. Ai
cũng biết Marx là người Do Thái, nhưng ông ta lại căm thù người Do Thái, còn
viết riêng một cuốn sách bài Do Thái, gọi là “Về vấn đề Do Thái” (On the
Jewish Question). Ông ta thù hận người Đức, người Trung Quốc, miệt thị: “Người
Đức, người Trung Quốc, người Do Thái đều là kẻ bán hàng rong”. Ông ta gọi
người Nga là “bị cơm”, gọi người Xla-vơ là “nhân chủng cặn bã”, là chủng tộc
“phản động”, và nên bị hủy diệt trong cơn bão táp cách mạng thế giới.
Trong “Tuyên ngôn của đảng cộng
sản” và các cuốn sách khác, Marx tuyên bố phấn đấu vì giai cấp vô sản, thế
nhưng lại gọi giai cấp vô sản là “ngu xuẩn, lưu manh, khó ngửi”, còn gọi người
da đen là “đần độn”, thậm chí ủng hộ chế độ nô lệ ở Bắc Mỹ…
Ngày 9 tháng 1 năm 1960, tờ báo Đức
“Reichsruf” đã tiết lộ một vụ bê bối lớn: Thủ tướng Áo Raabe đã từng bí mật gửi
lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô một phong thư gốc của Marx. Trong thư đã chứng
thực Marx từng là một kẻ mật báo lĩnh thưởng của cảnh sát Áo, ông ta từng là
gián điệp trong đội ngũ cách mạng lưu vong tại Luân Đôn. Mỗi lần cung cấp một
tin tức, Marx nhận được 25 đồng tiền thưởng. Phạm vi mật báo của Marx liên quan
đến những người cách mạng lưu vong tại Luân Đôn, Paris và Thụy Sỹ [1].
Marx chết ngày 14 tháng 3 năm 1883,
và được mai táng tại nghĩa trang Highgate (Highgate Cemetary) ở Luân Đôn, với
chỉ 6 người tham dự tang lễ. Thế nhưng nghĩa trang Highgate này là trung tâm
sùng bái Sa-tăng ở Luân Đôn, rất nhiều nghi thức đen tối sùng bái ma quỷ đã
được cử hành tại nghĩa trang này.
Sự thực đã chứng tỏ rõ Marx là một
tín đồ Sa-tăng giáo. Tất nhiên Marx không dám thừa nhận, và để che đậy, ông ta
mới nói dối mình là người vô thần. Marx vận dụng thuần thục các mánh khóe của
Sa-tăng — bịa đặt và lừa dối. Ở một góc độ khác, Marx là giáo chủ của đảng cộng
sản, dùng vô thần luận, duy vật luận để che đậy diện mạo thật sự của ma giáo
cộng sản, để mong đạt được mục đích hủy diệt tâm linh của nhân loại.
Mở đầu “Tuyên ngôn của đảng cộng
sản”, Marx viết: “Một bóng ma, bóng ma chủ nghĩa cộng sản đang làm run
sợ lục địa Châu Âu”. Không ít người cảm thấy nghi hoặc về đoạn này. Hiện
tại chúng ta đã minh bạch rồi, “bóng ma chủ nghĩa cộng sản” này kỳ thực là
Sa-tăng trong tâm Karl Marx. “Cửu bình cộng sản đảng” đã nói rõ điều này cho
mọi người, gọi là “tà linh cộng sản”.
Marx đối với nhân loại không hề có
yêu thương, mà chỉ có thù hận. Hơn 100 năm qua, chủ nghĩa cộng sản thực tiễn
thực hiện giấc mộng của tín đồ Sa-tăng Marx đã đem đến cho nhân loại tai ương
và thống khổ lớn phi thường. May có “Cửu bình cộng sản đảng” khiến ngày càng
nhiều người Trung Quốc thức tỉnh, thoái xuất đảng, đoàn, đội của Trung Cộng,
thoát khỏi khống chế của Sa-tăng, từ đó được tân sinh.
Tham khảo tư liệu:
[1] Von Richard Wurmbrand, Marx and
Satan (Marx và Sa-tăng), Living Sacrifice Book Co (December 1986).
[2] David Allen Rivera, Final
Warning: A History of the New World Order, Conspiracy (February 2004). Chương
6: Khởi nguyên của chủ nghĩa cộng sản.
[3] Rolv Heuer trong cuốn sách
“Thiên tài và phú ông” đã giới thiệu khi Marx học đại học Berlin, cha Marx cấp
cho Marx mỗi năm 700 đồng bạc tiền tiêu vặt. Đây là một con số rất lớn, bởi vì
thời bấy giờ, chỉ 5% người có thu nhập hơn 300 đồng bạc/năm.
* * * * * * * * * * * * * * * * * *
* *
“Con đường thành ma của Karl Marx”
(trích bộ phận quan trọng)
(Trích đoạn)
Trong bài thơ “Câu ma chú của kẻ
tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), Marx viết:
Thượng Đế đã lấy đi của ta tất cả,
Trong sự nguyền rủa và tra tấn của
định mệnh.
Tất cả thế giới đã ra đi không trở
lại!
Ta không còn lại gì ngoài thù hận!
Ta sẽ dựng ngai của ta ở trên trời
cao,
Lạnh lẽo và kinh khiếp làm sao khi ở
trên đỉnh,
Cho bức tường thành của sự mê tín
khủng khiếp,
Sự thống khổ đen tối nhất cho kẻ
ngồi trên.
Kẻ nhìn vào nó với đôi mắt khỏe
mạnh,
Sẽ trở thành xanh đen như chết và
câm lặng;
Chiếm cứ bởi sự mù quáng và lạnh lẽo
của tử vong,
Có lẽ niềm hạnh phúc sẽ chuẩn bị
phần mộ cho hắn.
Toàn văn bản tiếng Anh bài thơ có
thể được tra cứu tại:
(Trích đoạn)
Vào thời học sinh, Marx đã viết một
kịch bản, có lẽ là đáp án. Kịch bản này tên gọi là “Oulanem”. Để hiểu được đầu
đề này thì phải biết sự việc như sau:
Sa-tăng giáo có một loại nghi thức
tế lễ gọi là “tụ hội đen tối”. Trong nghi thức này, thầy tế của Sa-tăng giáo
tiến hành tụng niệm vào lúc nửa đêm. Cây nến màu đen bị đảo ngược và đặt lên
giá cắm nến, trong khi thầy tế mặc ngược áo trường bào, nhìn vào cuốn sách cầu
nguyện và tụng niệm, nhưng thứ tự niệm là hoàn toàn đảo lại, bao gồm thánh danh
của Thần, Chúa Jesus, và Đức Mẹ Maria, đều đảo lại để niệm. Một cây thập tự giá
được treo ngược hoặc bị giẫm ở dưới chân; một vật thâu trộm thánh khí của giáo
đường được khắc tên của Sa-tăng, dùng để trao đổi giả. Trong “tụ hội đen tối”
này, một bộ Thánh Kinh sẽ bị thiêu hủy. Tất cả những người có mặt sẽ phát thệ
phạm vào bảy tội tổ tông trong giáo nghĩa của Thiên Chúa giáo, đồng thời thề
vĩnh viễn không làm việc tốt. Sau đó, họ sẽ tiến hành túng dục cuồng hoan.
“Oulanem” chính là đem Thánh danh
“Emmanuel” ra viết bậy bạ. “Emmanuel” là một tên của Chúa Jesus trong Thánh
Kinh, theo tiếng Hebrew thì có nghĩa là “Thần đồng tại với chúng ta”. Phép
thuật hắc ám cho rằng loại đảo ngược này là hữu hiệu.
Tác phẩm “Oulanem” của Marx có thể
tra cứu trên mạng Marxist:
Dù sao đây cũng chỉ là màn kịch đầu
tiên (Act I), nội dung đằng sau vẫn còn chưa đưa lên mạng, tại sao vậy?
(Trích đoạn)
Để lý giải kịch bản “Oulanem”, chúng
ta nhất định phải dựa vào một màn tự bạch kỳ dị của Marx. Trong bài thơ “Người
diễn tấu” (The Fiddler), Marx viết:
Sao vậy! Ta lao xuống, lao xuống mà
không trượt
Thanh kiếm đen máu của ta đâm vào
tâm hồn ngươi.
Thượng Đế khéo léo kia không muốn
hay là quản,
Nó nhảy vào não từ đám sương đen của
địa ngục.
Tới khi trái tim mê mẩn, tới khi cảm
xúc dâng trào:
Ta đã bán mình cho ma quỷ Sa-tăng.
Ngài viết các ký hiệu, bấm thời gian
cho ta,
Ta chơi khúc quân hành Thần Chết
nhanh và rảnh.
Đoạn này càng thể hiện rõ hơn nữa,
Marx đã thừa nhận mình có khế ước với Sa-tăng. (Người viết bổ sung thêm: Marx
đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta”
[1])
Bản tiếng Anh tác phẩm “Người diễn
tấu” (The Fiddler) của Marx có thể được tham chiếu tại:
Những câu này mang theo một hàm
nghĩa đặc thù: Trong nghi lễ thăng cấp của Sa-tăng giáo, để thực hiện thuật phù
thủy, một thanh kiếm sẽ được bán cho người thăng cấp. Còn kẻ thăng cấp trả tiền
và dùng máu của mình để ký tên trên khế ước với ác ma; sau đó, khi người này
chết, linh hồn anh ta sẽ thuộc về Sa-tăng.
Dưới đây là trích dẫn kịch bản
“Oulanem” của Marx:
Họ cũng là Oulanem, cũng là Oulanem!
Có cái chết vang trong cái tên đó,
vang lên
Cho tới khi người ti tiện mang nó
kết thúc.
Nhưng đợi xem, ta đang có nó! Rõ như
không khí,
Chắc như xương ta, nó thăng lên từ
linh hồn ta.
…
Nhưng ngươi, trong cánh tay trẻ khỏe
của ta,
Và chúng xoắn lên điên cuồng ở trước
ngực.
Trong bóng đêm, vực không đáy mở ra
và nuốt trọn chúng ta,
Nếu ngươi chìm xuống, hãy cười, ta
sẽ theo ngươi,
Và thì thầm với ngươi: “Đi xuống! Đi
xuống với ta! Đồng chí!”
Trong Thánh Kinh mà Marx học ở đại
học nói ma quỷ bị một vị thiên sứ quăng vào vực không đáy (Khải Huyền, 20:3).
Vực không đáy này là dành cho ma quỷ và các thiên sứ sa ngã. Marx muốn đưa toàn
nhân loại vào trong địa ngục này.
Trong kịch bản này, ai đang đại biểu
cho lời thoại của Marx? Từ ngôn ngữ của người trẻ tuổi, chúng ta có lý do để
nghĩ rằng: Ông ta muốn ném toàn nhân loại vào ngục không đáy, còn bản thân ông
ta đang cười những người bị thuyết vô thần dụ dỗ. Ngoại trừ nghi lễ thăng cấp
của giáo hội Sa-tăng ra, trên thế giới không có bất cứ một loại lý niệm nào như
vậy.
Trong kịch bản “Oulanem”, khi
Oulanem chết, Marx mô tả:
Tất cả đã mất! Thời giờ đã mãn, và
thời gian
Dừng lại. Vũ trụ tầm thường này sụp
đổ.
Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và
hét lên,
Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con
người.
Marx thích lặp lại câu nói của ác ma
Mephistopheles: “Hết thảy những gì tồn tại đều nên bị hủy diệt”. Ông ta thích
trích dẫn câu nói đó.
Hết thảy những thứ này là chỉ điều
gì? Công nhân, nông dân, trí thức, thương nhân? Người tin chủ nghĩa cộng sản?
Hay là toàn nhân loại? (Người viết bổ sung thêm: Nguyền rủa cả nhân loại đều bị
hủy diệt, chỉ có ma quỷ Sa-tăng mới có ý tưởng như vậy [2])
(Trích đoạn)
Thành viên Sa-tăng giáo không phải
là người duy vật, họ tin rằng có sự sống sau khi chết. … cho rằng sự sống sau
khi chết chứa đầy thù hận đối với Đấng Tối Cao. Đối với ma quỷ, “vĩnh hằng”
đồng nghĩa với “khổ hình”. Chính vì vậy ma quỷ mới trách mắng Chúa Jesus: “Hỡi
Con Đức Chúa Trời, chúng tôi nào có gây sự gì với Ngài chăng? Ngài đến đây để
hình phạt chúng tôi trước kỳ sao?” (Phúc Âm Matthew, 8:29). Marx cũng có cùng
một loại bất an như vậy. Trong “Oulanem”, ông ta viết:
Vĩnh hằng! Nó là nỗi đau vĩnh hằng,
Cái chết không thể tưởng tượng, đo
lường được!
Một mưu kế tà ác được trù tính để
chế nhạo chúng ta,
Không gì ngoài máy đồng hồ, cỗ máy
câm lặng rung lên
Trở thành lịch — trò hề của thời
gian; trở thành,
Chỉ là thứ gì đó nhờ đó ít nhất có
thể xảy ra;
Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy
diệt!
(Trích đoạn)
Khi Marx viết “Oulanem”, cậu thanh
niên trẻ này mới chỉ gần 18 tuổi. Lúc ấy, kế hoạch ấp ủ cả một đời của ông ta
đã thể hiện rất rõ ràng. Marx
|