SỰ ĐỐI ĐẦU
CỦA HAI VƯƠNG QUYỀN
(Mátthêu 2, 1-12 – Hiển Linh)
1.- Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là
một bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm
này cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với
nhau. Đề tài “sự hoàn tất các sấm ngôn” cũng được nhắc tới đều đặn (x.
2,6.15.18.23). Có bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của
chương này, nhưng dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản
văn ngôn sứ mà truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc
điểm chung là nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta
lại có thể phân biệt ra hai khối:
- 2,1-12: Truyện
kể nhiều chi tiết; những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là
phương tiện Thiên Chúa dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít
chi tiết kể truyện, và chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất;
nhân vật chính là Giuse (không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse
được thiên thần Chúa ban lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là sợi dây
liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng của TM Mt:
người Do-thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân thì đón nhận.
Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng cho người
Do-thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ chiếm chỗ
mà người Do-thái bỏ trống trong lòng Dân Thiên Chúa, khi họ không chịu tin. Dân
ngoại sẽ là dân Ít-ra-en chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia
sẻ hạnh phúc của cuộc sống tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên
suốt cả chương 2 cũng như xuyên suốt cả Tin Mừng cho đến cuộc
Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có thể nói truyện các nhà chiêm tinh
tóm tắt toàn thể TM Mt.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem, chúng ta có thể đặt ra
nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các ngài đã thấy xuất hiện
ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi sao của Đấng Mêsia? Tại
sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin
Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới,
chúng ta nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy
Đức Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Ít-ra-en, và bản văn về nguồn gốc đích thực
của Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp
chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã
đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria
và Giuse. Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới
Hài Nhi. Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà
chiêm tinh, các kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời
loan báo hậu Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh
bởi những hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm
và bách hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức
Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể được chia ra làm hai phần,
với một câu Mở và một câu Kết:
1) Mở (c. 1): Giới
thiệu các nhân vật và hoàn cảnh.
2) Phần 1 (cc.
2-8): Tại
đền vua Hêrôđê. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc.
9-11): Tại nhà
của Hài Nhi. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
4) Kết (c. 12): Các
nhà chiêm tinh trở lại quê hương.
3.- Vài điểm chú giải
-
Bêlem (Bêthlehem) (1), có nghĩa
là “nhà bánh mì”, hoặc cũng có thể là “nhà của thần Lah(a)mu” (thần của dân
Akkad). Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát,
của Isai (Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x. 1 Sm 16; 20,6).
Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42.
- Vua
Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền Giuđê (năm 37-4 tr CG). Bởi vì ông xuất
thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa hy-lạp, nên
ông bị người Do-thái ghét bỏ, cho dù ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy
hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào trạng thái kinh hoàng, nên
chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù là tàn sát cả gia đình
ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ, đặc biệt là một cuộc suy
sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người bất mãn và nổi loạn.
- Đức
Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như
ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp nơi: chia thành hai phần trước và sau
cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy, người ta tính năm dựa theo các Đại hội
thế vận Hy-lạp (Đại hội đầu tiên được tổ chức năm 776 tr CG), hoặc dựa theo năm
thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tr CG), hoặc dựa theo những hoàng đế cai
trị ở Rôma. Sau một thời gian, các ki-tô hữu có thói quen tính thời gian khởi
đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 sau CG), ông này đã bách hại họ tàn khốc, và
họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu lịch chúng ta đang sử dụng
hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông này sống tại Rôma vào tiền
bán thế kỷ vi (mất trước
năm 555). Để cho những năm cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách
hại, Denys thay thế kỷ nguyên các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là
người đầu tiên cho kỷ nguyên Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô,
mà theo các tính toán của ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma
được thành lập. Theo TM Mt, “Đức Giêsu ra đời tại
Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì” (2,1), mà chúng ta biết rằng vua
Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu
phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức Giêsu đã ra đời vào thời gian
giữa năm 8 và 6 tr CG.
- mấy
nhà chiêm tinh (Hl. magos): Đây là những vị hiền giả Đông
phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những nhà chiêm tinh Babylon,
đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do-thái. Có thể họ sống
bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới
Do-thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7;
60,10, truyền thống sau này đã nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại
lễ vật, người ta cho rằng họ là ba vị (tk v),
và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior (tk 8). Sang tk xiv, ông Gaspar được coi là một người da
đen...
- chúng
tôi đã thấy vì sao (2): Vào thời thượng cổ, người ta thường cho rằng
cuọc chào đời của các nhân vật quan trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới.
Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan
sát chuyển động của các tinh tú. Do- thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên
sai vào ngôi sao được nói tới ở sách Dân số (24,17). Có thể
nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là hình ảnh ưu
tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất thân từ nhà
Đavít.
- xuất
hiện (2): Người ta đã tìm cách xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng
thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu,
bởi vì hoặc tác giả Mt muốn kể lại một hiện tượng lạ lùng duy
nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc điểm văn chương, được gợi
hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương ứng thế giới
vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện vô ích.
-
chúng tôi đến bái lạy (Hl. proskyneô): Mt dùng
động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là thái độ con người tùng phục
Thiên Chúa.
-
Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một
kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do-thái loại trừ Đức Giêsu
(x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được
hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả
tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có
thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do-thái có ánh sáng Kinh
Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
- Phần
ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3
với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không tương ứng với bản
văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy-lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi đó vào với mục
tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs (Pháp: pas
du tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha,
ngài cho thấy ngài chú tâm đọc Cựu Ước dưới ánh sáng của đức
tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào đời, Bêlem không còn có thể
là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng: các kinh sư loan báo nơi
Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù sao, họ cũng vẫn là những
cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà họ lại không thể nhận ra
được Người!
- mừng
rỡ vô cùng (10): Niềm vui của các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so
với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm
vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn
trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua
Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà
vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày
Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết
(28,4).
- Họ
vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt chẽ niềm vui của những
người ngoại giáo và việc họ đi vào “nhà”, là hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi
người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài
nhi và thân mẫu: Công thức này được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là
do tác giả cố tình chọn để nhắc lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- lấy
vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường
có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm 10,27; 1
V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng
với một vị vua: x. Tv 72,15 (vàng); Is 60,6
(vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua); Dc 3,6
(nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là những
biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng (mộc
dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh (1)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã giới
thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được đề
cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, “vương quyền của Đấng Mêsia”, đã
được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu “vua” gán cho Hêrôđê, một danh từ liên tục
được nhắc lại suốt bài này.
* Tại đền vua Hêrôđê (2-8)
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi của các
nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh, chứ không phải là
“vua”. Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành thiên văn và chiêm tinh
đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố xảy ra trên bầu trời và
trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt chẽ với nhau. Người ta
xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì cũng hiểu lịch sử loài
người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng về lịch sử này. Các nhà
chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và thấy trước tương lai
bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim bay. Họ cũng có khả
năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm tinh vừa
ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do-thái như thế, trên đất
Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một nhân vật
quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh vực
nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho
biết Đấng Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh
đã thấy ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi
hay một ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các ngài biết rằng một đàng, Ds 24,17
khẳng định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, một đàng có một truyền thống
song song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy-lạp LXX), khẳng định
rằng Đấng Mêsia sẽ trị vì trên nhiều dân tộc. Các nhà chiêm tinh này biết rằng
dân Do-thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ thời Lưu đày Babylon, đã có nhiều người
Do-thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn giáo và các niềm
chờ mong Do-thái.
Khi tác giả Mátthêu kể câu
truyện Các nhà chiêm tinh, ngài muốn nói với chúng ta rằng cuối cùng Đấng giải
phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tính nhận ra Người và thờ lạy Người. Đức
Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị này tưởng là đã đạt mục
tiêu, nhưng các vị lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ
các vị biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh
Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê.
Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và
Mục tử của dân Israel. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và
sẽ lo lắng chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Các
kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến cho, đã ở lại
Giêrusalem; trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã
kiên trì theo đuổi mục tiêu, các vị tiếp tục cuộc hành trình.
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián tiếp giới thiệu Đấng
Mêsia vương giả bằng câu sấm Mk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2.
Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê phải hỏi về nơi Đấng Mêsia sinh ra, mà nơi
này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với các nhà chiêm tinh
đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng hội đồng Do-thái chỉ để xin
một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư Giêrusalem “xôn
xao”…) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một sáng tác văn chương mà thôi.
Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện này minh họa thật rõ việc dân Do-thái
loại trừ Đức Giêsu và dân ngoại đón tiếp Người.
* Tại nhà của Hài Nhi (9-11)
Chủ đề được trình bày rõ ràng qua việc các nhà
chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật (c. 11). Đây mới là vị vua
chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước “vua” không hề được dùng mà gọi
Người. Nhưng chủ đề “vị vua thật” chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ (“Vua
dân Do-thái”: c. 2; “vì sao của Người”: cc. 2.7.9.10; “vua Hêrôđê: c. 3;
“Hêrôđê”: cc. 7.12; “bái lạy”: c. 8; “nhà vua”: c. 9) và các cụm từ (“vì ngươi
là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”: c. 6; “sấp mình thờ
lạy”: c. 11; “lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng tiến”: c. 11) liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn ngoan và giàu kinh
nghiệm, đã phủ phục trước Hài Nhi, một trẻ sơ sinh không hề tỏ ra có chút uy
hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông phương nhìn nhận Đấng có quyền
trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn vào đấng ấy (là vua chúa hay
thần linh) (x. “phủ phục”: những người được Đức Giêsu chữa lành: Mt 8,2;
9,18; 15,25; môn đệ Người: 14,33; 28,9.17). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy
và cũng chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể
của Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận
biết Người nhờ lòng tin. Các lễ vật quý giá (vàng, ngũ hương và mộc dược) các
vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là
Chúa tể.
* Các nhà chiêm tinh trở lại quê hương (12)
Chủ đề được khóa lại với tên “Hêrôđê”, vị vua
đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt Hài
Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của ông, và
các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho biết; và
hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi. Tuy nhiên,
Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường khác.
+ Kết luận
Đọc
bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra có sự đối đầu của hai vương quyền, vương
quyền của Thiên Chúa và vương quyền của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai
nỗi lo lắng: nỗi lo của những con người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm;
nỗi lo của con người sợ cuộc sống mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến
đi, để rồi đến cuối con đường, một bên được hưởng niềm vui cứu độ,
một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch. Chỉ khi vương quyền
của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền của Thiên Chúa, khi
đó mới có sự “bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một
huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn
đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua
Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban cho các nhà chiêm tinh trong mộng,
tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn tượng là truyện không thật. Nhưng
ngược lại, nếu so sánh truyện này với những gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ
Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu
tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một vị vua cứu thế và những cơn điên
khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù hợp với truyện. Nhưng “đúng” không
nhất thiết là “thật” về lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện
trong chương 2 Mt cũng không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp.
Dường như tác giả đã sử dụng thể văn midrash haggada để giải
thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh Thánh, để đi tới việc ca
tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những chương trình của Thiên Chúa
trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng đoàn.
2.
Có những điểm “khôi hài” trong bài: Sự khôn ngoan của dân ngoại mà người
Do-thái vẫn loại trừ hoặc khinh bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô.
Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của “Đức
Vua mới sinh”. Đàng khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc
gốc dân Iđumê) cũng có thể trở thànhtrung gian cung cấp cho người ta những
thông tin chính xác. Đấy là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư
lại để hỏi cho biết Đấng Kitô sinh ra ở đâu.
3.
Có hai chuyển động ngược chiều trong bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại
trong thái độ cứng tin và từ khước, và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng
Do-thái và dân Giêrusalem, còn các nhà chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm
mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó,
các vị “đã đi lối khác mà về xứ mình” (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về
lối ứng xử của các kinh sư: họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh,
nhưng họ không hề lên đường. Thánh Âutinh bảo rằng họ là “những cột cây số”; họ
chỉ đúng đường, nhưng họ không di chuyển!
4.
Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn.
Đến Giêrusalem, các vị lại nhận được một thông tin chính xác hơn
rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết định lên đường và cứ dò dẫm từng
bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới mục tiêu bằng “ngôi sao” dẫn
đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại và không quản ngại mệt nhọc, trái lại
đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa
luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm
thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt mù.
5.
Các nhà chiêm tinh không thấy vinh quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng
các vị đã bái lạy mà nhìn nhận Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của
Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết
Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong.
Dựa vào ba lễ vật, qua các thời đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm
tinh, có tên rõ ràng, một vị trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị
đã già; một vị là người châu Á, một vị là người châu Âu
và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của
bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con
người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi
nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho
người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác
ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha
và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm
tinh, loài người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để
cho Thiên Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6.
Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc
ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao
đích thật là Đức Giêsu. Người chính là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng
giải thích cho chúng biết rằng các nhà chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc
trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn.
Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh, được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống
nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là
đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ
“đồng nhất” giả tạo và bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của
họ và làm giàu cho Hội Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
|