Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo.
(Trích trong ‘Niềm
Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi
khắp thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Thưa
anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng của
Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các
Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng
của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua
20 thế kỷ truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số
đáng lo ngại so với dân số thế giới ngày
càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã
lên đến trên 5 tỷ người, thế mà số tín
hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng
50 phần trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải
rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á
của chúng ta, một lục địa với hơn 3
tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là
người Công giáo. Tại Trung Quốc chỉ có 4
triệu người Công giáo giữa một tỷ dân.
Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn
người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công
giáo trên 42 triệu dân. Tại đất
nước Việt Nam chúng ta
chỉ có hơn 4 triệu rưỡi người Công giáo
trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại
TP. Hồ Chí Minh chúng ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584)
người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ
13%. (Tại Hạt Tân Định, có
41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là
những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa
Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo
hay không là chuyện khác.
Như chúng ta
được biết, ở những miền có đông
giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời
sống dân chúng ở đó lại nghèo đói và thiếu
linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất
Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa số là
Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã
bỏ Giáo Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có
trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để
được hưởng trợ cấp). Trái lại,
ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật
chất- như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người
Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn
trọng các giá trị đạo đức tinh thần
nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo
Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu
và là một vết thương đau nhức nhối
nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra
đây một dấu chỉ của thời đại:
Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà
Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết
định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh
đường đồ sộ của thành phố, vì
không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản
9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại quá
lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức
Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố:
ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ
sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công
giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y
Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên
bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ
thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì
thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi Tuần,
Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những
dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta
thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa,
không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có nhiều người
tin, nhưng với một niềm tin hời hợt,
hững hờ. Chính vì thảm trạng nầy mà
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông
điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu Độ”
(Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo
Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái
truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế
Giới Truyền Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi
đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp
với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu
đều được mời gọi làm người
truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói:
“Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu
quyết liệt lập lại những lời Ngài đã
nói với các Tông đồ trước khi về trời,
những lời hàm chứa bản chất sứ vụ
của người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân
của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền
Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất”
(Cv 1,8). Quả thực, Kitô
hữu là ai? Thưa họ là người
được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao khát làm cho
Chúa Kitô được mọi người nhận biết
và yêu mến ở khắp mọi nơi “cho đến
tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc
đẩy chúng ta trở thành những nhà truyền giáo,
những chứng nhân của Ngài. Nếu không thực
hiện được điều đó, có nghĩa là
niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm khuyết
và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền
giáo là vấn đề của niềm tin, nó là
thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu
và nơi tình yêu của Ngài dành cho chúng ta” (RM số 11).
Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau:
đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền
thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng bức
thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy
yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy giảm và
khả năng làm chứng cũng mất đi sức
mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong lịch
sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành
truyền giáo là triệu chứng của sự khủng
hoảng đức tin. Điều này phải chăng
xảy ra khi người ta đánh mất xác tín sâu xa là:
“Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ”
(RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài
mà đức tin của chúng ta được củng
cố và tái khám phá con đường đưa đến
một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài.
Như thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một
phương thuốc chắc chắn nhất chống
lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành
phần Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ
là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu
không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu
được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh
Tẩy, đều được mời gọi làm nhà
truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng
của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi
người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về
Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân,
bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác
với Thiên Chúa để cứu độ mỗi
người và cả nhân loại” (số 3).
Truyền giáo
bằng đời sống chứng tá Tin Mừng giữa
đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời
sống yêu thương, bác ái, công bình, cụ thể trong
gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi
người giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện,
như những người sống các Mối Phúc của
Tin Mừng, đó là căn tính của người
Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ
dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong
thực tế, họ cảm thấy cần đến
Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động,
những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt
của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như
những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta
ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ
thể chúng ta đang sống, với những con
người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần
đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân
tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng
đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến
đời sống nhân chứng của chúng ta để bày
tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên
của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa
mới, đó là công việc đặc trưng của
những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên
Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân
Cứu Độ.