Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Thánh Mát-thêu Tông Đồ - Ngày 21/9
|
|
Thứ Ba, Ngày 20 tháng 9-2011
|
Còn có tên là Lê-vi, anh em với Thánh Tông Đồ Gia-cô-bê Hậu, con ông Alphaeus.
Tên Lê-vi thuộc dòng dõi tư tế, do cha mẹ đặt cho mờ dần nhường chỗ cho tên
Mát-thêu, có nghĩa là ’Món Quà của Chúa’. Không có giải thích nào và do đâu
Mát-thêu có tên này. Trong danh sách các Tông đồ Mát-thêu luôn được liệt kê vào
hàng số bảy hay tám.
Dưới chân thập tự ngày Chúa chịu chết có bà Mary vợ ông Clopas hiện diện. Bà
này cùng với các bà khác mang dầu thơm sáng sớm đi ướp xác Chúa. Bà là mẹ
Gia-cô-bê (Mc 16,1). Các sử gia đồng ý với nhau Gia-cô-bê con của Clopas hay
Cleopas và Gia-cô-bê con của Alphaeus chỉ là một người. Các tên Clopas, Cleopas,
Alphaeus hay Alphius chỉ là một nhân vật nhưng cách viết khác nhau, tùy theo
tiếng Hy-lạp hay tiếng Aramaic. Thí dụ chữ Capernaum viết cách khác là Kefar Nahum.
Thế kỉ thứ II sử gia Hegesippus người Palestine,
đồng liêu với song thân Đức Mẹ là Gio-a Kim, An-na, ghi nhận Alphaeus và Giu-se,
thợ mộc thành Na-da-rét
là anh em ruột. Mát-thêu, Gia-cô-bê và Chúa Giê-su họ hàng rất gần, thuộc bên nội vì
một đàng con của chú, một đàng con bác. Mát-thêu và Gia-cô-bê hậu có họ hàng với
Gio-an và Gia-cô-bê Tiền con của Dê-bê-đê họ hàng phía bên ngoại. Phê-rô, An-rê,
Gia-cô-bê Tiền, Giacôbê Hậu làng Capernaum,
thân thích với Chúa Giê-su.
Theo luật Rô-ma người thuộc dòng dõi quí tộc, sanh ra làm cha thiên hạ. Nhờ
dòng dõi thế giá Mát-thêu được học để nắm chức vụ quan trọng trong việc chăn
dân, trị nước. Mát-thêu lại có liên hệ mật thiết với vua Hê-rô-đê An-ti-pa và Hoàng
gia. Nhờ những liên hệ này mà cả hai anh em đều mắn chức vụ quan trọng trong sở
thuế. Sanh tại Ca-pha-na-um,
thuộc quyền kiểm soát của Hê-rô-đê Antipas. Không là môn đệ Gio-an như những Tông
đồ khác, Chúa Giê-su gọi Mát-thêu, ông đáp lại bằng cách mời lại Chúa và các môn
đệ đến tư dinh dự tiệc mừng. Ngoài Chúa và các môn đệ ra khách dự tiệc hôm đó
toàn là dân sở thuế vì thế mà nhóm Pha-ri-sêu và bè Biệt Phái hè nhau đánh phủ
đầu, kết án là bạn của phường tội lỗi và gian ác (Mat 9,11-12). Mát-thêu không
chối điều này vì biết Đức Ki-tô ví người thu thuế và dân ăn chơi cùng phường với
nhau. Ông tìm nguồn an ủi nơi câu: Ta không đến kêu gọi người công chính, nhưng
kẻ tội lỗi (Lc 5,29).
Mát-thêu theo Chúa gây chấn động toàn vùng vì ảnh hưởng của ông và tầm quan
trọng vị trí của thành. Ca-pha-na-um nằm giữa đường đi từ Đa-mát và cảng Arce, gần
cửa sông Gio-dan, một trị trấn buôn bán, sầm uất tiện lợi cho cả đường thủy lẫn
bộ của miền thập tỉnh và các vùng phụ cận. Ưu điểm khác Ca-pha-na-um nằm ngay biên giới hai tiểu vương
Hê-rô-dê Phi-líp và Hê-rô-đê Antipas. Không những tiện cho việc thuế má mà còn là nơi
mọi tin tức nóng hổi xa gần đều đổ dồn và xuất phát từ cửa miệng những con buôn.
Họ vừa buôn hàng vừa buôn điều. Hàng hóa trao đổi gồm bồ câu, gia súc, trái
cây, cá khô, các loại bình sứ và vải tơ lụa. Buôn điều vì buôn bán tin họ đưa
đến và tin họ mang đi. Là nơi quy tụ nhiều công nhân thợ thuyền, thợ khuân vác
bến cảng, dân vá chài lưới thuê, sửa và sơn thuyền, con buôn và quán trọ. Vì lí
do này Chúa chọn Ca-pha-na-um
là địa điểm xuất phát cho việc rao giảng Tin Mừng. Mát-thêu từ giã chức vụ phòng
thuế đi theo Chúa gây một tiếng vang thiên hạ đồn nhiều ngày đường, khắp miền
lục tỉnh và các vùng phụ cận.
Khó xác định nguồn tin nào xác tín hơn tin nào về cuộc đời rao giảng Tin
Mừng của Mát-thêu. Eusibius xác quyết Mát-thêu rao giảng tại Ethiopia. Ambrose lại nói ngài
truyền giáo tại Persia; theo
Isidore thánh thân truyền giáo tại Macedonia. Clement thành Alexandria tin thánh nhân
chết bệnh lúc tuổi già; trong khi đó Talmud quả quyết ngài bị hành quyết.
Sử gia Eusibius ghi nhận Mát-thêu giảng bằng tiếng Do-thái.Viết bằng tiếng
Aramaic cho giáo dân phía bắc Palestine.
Mát-thêu viết bằng tiếng Aramaic, các phúc âm khác viết bằng tiếng Hy-lạp. Chính
Mát-thêu tự dịch Phúc âm sang tiếng Hy-lạp, sao thành nhiều bản. Bản gốc tiếng
Aramaic của Mát-thêu hiện nay lưu tại thư viện Casesarea do thánh Pamphilus lưu
lại, dù không nguyên vẹn nhưng nhiều bản thảo còn tồn tại. Mát-thêu nhắc đi nhắc
lại nhiều lần Đấng Mê-si-a loan báo trong Cựu Ước chính là Đức Giê-su. Mát-thêu cũng
là người duy nhất nhắc đến dụ ngôn người kia tìm được ngọc quý chôn trong thửa
ruộng, ông về nhà bán hết của cải mua ruộng ám chỉ về chính ông.
Có quá nhiều thuyết về cuộc đời rao giảng Tin Mừng của vị Tông đồ này.
Socrates tin Mát-thêu truyền giáo và qua đời tại Ethiopia;
trong khi đó thánh Ambrose xác định
Mát-thêu
giảng đạo và qua đời tại Macedonia, Persia. Thánh Clê-men-tê thành Alexandria thêm chi tiết
Mát-thêu
ăn chay trường, không ăn thịt cá. Thực phẩm là rau, các loại đậu và
không chết tử vì đạo mà chết bệnh. Talmud lại xác định
Mát-thêu
tử đạo. Goodspeed
giải thích sự khác biệt về vùng truyền giáo và cái chết của
Mát-thêu
có nhầm lẫn về
nhân sự giữa Mát-thi-a và
Mát-thêu
gây nên bởi sự có mặt của thánh Tông đồ An-rê.
Vị Tông đồ này là bạn đồng hành với hai vị Tông đồ kia nên chứng tích truyền
giáo của ba thánh nhân hợp lại khiến các sử gia không sao gỡ nổi. Nguyên nhân
khác lầm lẫn địa danh. Có hai Ethiopia,
một bên Africa, một bên Persia.
Sự lầm lẫn này do con buôn gây nên gọi một vùng thuộc lãnh thổ Persia là Ethiopia. Rất có thể
Mát-thêu
qua đời
trên đường đi từ Ethiopia về
Egypt.
Ngài là vị Tông đồ có kiến thức nhất trong số mười hai, nói và viết được các
ngôn ngữ Aramaic, Hy-lạp và La-tinh.
Một phần thánh tích được tôn kính tại nhà thờ chính tòa Salerno, Ý. Với các chỉ dẫn phương cách lưu
giữ hài cốt. Phần khác tôn kính tại thánh đường Santa Maria Magiore bên Rô-ma.
Lm. Vũ Đình Tường
---------------------- Tóm lược trong tài liệu:
1.The Search for the Twelve Apostles của W. McBirnie
2. The Twelve Apostles của R. Brownrig.
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài cùng ngày
Tin/Bài khác
|
|