PHẢI
SỐNG CÁCH NÀO ĐỂ LÀM CHỨNG NHÂN ĐÍCH THỰC CHO CHÚA KITÔ
TRONG HOÀN CẢNH THẾ GIỚI NGÀY NAY
?
Thế giới ngày nay đang ngụp lặn
trong “văn hóa của sự chết = culture of death” như Đức cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II (nay là Chân Phước) đã dùng cụm từ trên để diễn tả, và kêu gọi
mọi tín hữu lưu tâm đúng mức về thảm họa này. Cũng như thêm
tích cực sống đức tin Công giáo để chống lại ảnh hưởng rất tai hại của làn sóng
vô thần, vô luân đang lôi cuốn và xô nhanh biết bao người ở mọi nơi vào
con đường hư mất.
Thật vậy, chủ nghĩa tương đối (relativism) cùng với chủ nghĩa hưởng
thụ vật chất (material comsumerism) đang lừa dối con người tới mức coi
thường hay khinh chê mọi giá trị luân lý, đạo đức để từ đó quyến rũ
con người ở khắp nơi lao mình đi tìm tiền của, thú vui và hư danh
trần thế bằng mọi giá, bất chấp lương tri và đạo đức là nền tảng cho một
đời sống nhân luân xứng đáng với địa vị là con người, khác biệt với mọi
loài vật cầm thú vô tri.
Chính vì không còn nghe theo tiếng nói của lương tâm, một quà tặng quí
giá mà Thiên Chúa chỉ ban tặng riêng cho con người để giúp con người biết sống
theo đường lối của Ngài hầu được cứu rỗi, nên người ta đã lẫn lộn giữa sự
thiện và điều ác, lấy gian manh lừa đảo làm lẽ sống, chà đạp thô bạo mọi giá trị
của luân lý, phong hóa, công bằng, nhân ái, coi trọng súc vật , như chó, mèo,
rùa (turtle) chím, cá… hơn cả sự sống của con người, dù chỉ mới thành hình trong
lòng mẹ. Đó là tội phá thai ở khắp nơi - tức giết người - mà
người ta coi là vô tội, là hợp lý, là quyền riêng của phụ nữ, trong khi tự
bản chất (intrinsically) đó là tội ác lớn lao nhất mà con người thời đại
này đã phạm và vô tình chống lại Thiên Chúa là Nguồn phát sinh mọi sự
sống.
Mặt khác, cũng vì coi rẻ lương tâm, không chấp nhận có luân lý, đạo
đức phổ quát (universal ethics and morals) vì coi mọi giá trị tinh
thần và đạo đức chỉ là tương đối, nên con người ở khắp nơi ngày nay
đang mặc sức làm những sự dữ như chém giết, gian ác, tráo trở, lừa đảo, bóc lột,
bất công, chà đạp quyền sống của con người, cho phép hôn nhân đồng tính (same
sex marriage) sản xuất sách báo, phim ảnh bạo động, dâm ô, và nhất
là buôn bán phụ nữ và trẻ em cho kỹ nghệ mãi dâm và ấu dâm (child
prostitution) rất khốn nạn và vô luân.
Tệ hại không kém là tập đoàn tài phiệt, đại tư bản gian ác ở Mỹ đã dùng
tiền bạc để mua chuộc (lobby) các dân biểu, nghị sĩ để họ thông qua luật không
tăng hay miễn thuế cho bọn chúng, nhưng lại cắt giảm ngân quỹ dành cho bệnh
nhân, cho giáo dục và người già sống nhờ trợ cấp xã hội (tiền già, SSI).
Đây là tội ác của những tay đại tư bản quá giầu có nhưng hoàn toàn vô tâm, lãnh
cảm (numb) trước sự đau khổ của người nghèo, người có lợi tức thấp, không có bảo
hiểm sức khỏe và không có tiền cho con cái đi học đại học như con cái của
bọn nhà giầu kia.
Ở
bên kia thái cực, những người cầm quyền của các chế độ cộng sản còn lại
trên thề giới hiện nay, đều đã trở thành “những đại tư bản đỏ”
những tay giầu sụ nhờ vơ vết tài sản của công làm của riêng và tàn
nhẫn bóc lột người dân đen để có nhiều tiền chuyển ra ngoại quốc phòng
thân cũng như gửi con cái đi học ở Mỹ, Canada, Anh, Pháp… trong khi đa số người
dân trong nước còn sống dưới mức nghèo khổ, phụ nữ phải bán thân nuôi
miệng, hoặc nhắm mắt trao mình cho bọn buôn người khai thác kỹ nghệ mãi
dâm dưới bình phong "hôn nhân nước ngoài" vô cùng khốn nạn và vô luân như đã
diễn ra từ nhiều năm nay .
Trước thực trạng này, là người tín hữu Chúa Kitô trong Giáo Hội Công
Giáo, chúng ta được kêu gọi hơn bao giờ hết phải thực sự sống niềm tin có
Thiên Chúa là Cha cực tốt cực lành, là Đấng công minh chính trực để
làm chứng cho Chúa Kitô, Đấng đã đến không những để cứu con người khỏi chết vì
tội mà còn mặc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong
Mầu nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa duy nhất thánh thiện, công bình, khoan dung
và đầy yêu thương, nhưng gớm ghét mọi tội lỗi.
Sau khi hoàn tất
công trình cứu chuộc nhân loại, và trước lúc về Trời, Chúa Giêsu đã ân cần
căn dặn các Tông Đồ như sau :
“ Anh
em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là nhân chứng cho Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các
miền Giuđa, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất.” ( Cv 1:
8)
Làm
nhân chứng cho Thầy ở Giê-ru-salem và cho đến tận cùng trái đất nghĩa là gì
?.
I-
Trước hết, về phía người đi rao giảng, dạy dỗ chân
lý:
Làm chứng cho Thầy
chắc chắn không phải là chỉ nói cho hay, giảng cho hùng hồn, hấp dẫn, xây chủng
viện tốn phí lên đến 4, 5 triêu dollars hoặc xây hay sửa sang thêm nhiều
nhà thờ nguy nga lộng lẫy để khoe khoang với du khách nước ngoài về mức phát
triển (giả tạo) của Đạo Thánh ở Giáo hội địa phương.
Nói thế không có
nghĩa là không cần xây chủng viện hay nhà thờ mà chỉ muốn nhấn mạnh
điều quan trọng hơn là phải chú tâm xây đền thờ Chúa trong tâm hồn
mọi tín hữu, đào tạo những Kitô Hữu đích thực để làm nhân chứng cho Chúa Kitô
trong một xã hội, một thế giới quá gian tà như thực trạng ở khắp nơi ngày
nay .
Thật vậy, làm
chứng nhân cho Chúa Kitô không phải chỉ chú trọng rao giảng Tin mừng Cứu
Độ của Chúa - mặc dù là cần - nhưng cần thiết và quan trọng hơn
là chính người đi rao giảng phải sống và thực hành cách trung thực điều
mình giảng dạy. Có như thế, thì mới mưu ích cho phần rỗi của chính
mình và cho người khác, nhờ gương sống đức tin của mình trong vai trò nhân chứng
cho Chúa giữa thế gian, khiến cho nhiều người tin và biết sống ngay lành để được
cứu rỗi, vì đó “ là điều tốt và đẹp lòng Thiên
Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết
chân lý.”( 1Tm 2:3-4).
Nói khác đi, nếu
người rao giảng không sống trung thực với nội dung Tin Mừng thì sẽ không
thuyết phục được ai nghe và tin điều mình giảng dạy. Và như thế, thay vì
là nhân chứng cho Chúa , người ta sẽ trở thành phản chứng (anti-witness),
vì lời nói không đi đôi với việc làm, lý thuyết mâu thuẫn với thực
hành khiến không ai muốn nghe và tin điều mình dạy bảo nữa.
Cụ thể nhất hiện nay
là một linh mục kia mà đời tư cũng như đời công đều đã phơi bày cho mọi người
biết từ trên 30 năm qua, nay đột nhiên lên giọng "gái hư mất nết mà còn già mồm"
hay "vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa la làng". Ông trơ trẽn thách đố ai trưng
được bằng cớ "ông có vợ con" và còn đe dọa đưa người tố cáo ra tòa! Thật hết chỗ
nói. Luận cứ của ông thì con nit cũng không thể nghe và tin được, nói chi người
lớn. Không ai có thể lấy thúng để úp voi. Và chỉ có "luật rừng rú " mới có thể
bênh vực và xử cho ông thắng kiện trong việc trơ trẽn dối gạt không những
lương tâm của chính mình mà còn bóp méo sự thật để mong phỉnh gạt người khác.
Nhưng chắc chắn ông không thể thuyết phục được ai và việc làm của ông chỉ
tố cáo một sự kiện rõ rệt nhất : đó là sự phá sản của lương tâm con người và
lương thiện của một linh mục. Chúa nói : "có" thì phải nói "có", không" thì
phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ma quỷ." ( Mt 5: 37). Ông
hẳn đã nghe và giảng câu này cho giáo dân nhiều lần ???.
Như thế, đời sống và
việc làm của ông chỉ giúp làm chứng rất hữu hiệu cho sự gian dối, tráo trở, vô
liêm sỉ của một con người và - tệ hại hơn nữa - của một linh mục đã biến chất,
phương hại cho thanh danh của hàng giáo sĩ và uy tin của Giáo Hội. Do đó,
tuyệt đối không thể làm nhân chứng cho Chúa Kitô về bất cứ phương diện hay
giá trị nào.
Liên quan đến sự
tráo trở của linh mục trên, cũng cần phải nói đến sự vô trách nhiệm của Giáo
quyền đia phương đã vô tình hay cố ý đồng lõa, dung túng cho đương sự làm
những việc sai trái từ bao năm qua mà không hề có biện pháp kỷ luật thích
hợp theo giáo luật! ( x. can.no. 285)
Đây cũng là thái độ
thiếu nhân chứng của những người lẽ ra phải nêu gương nhân chứng về
tinh thần trách nhiệm nhằm bảo vệ giáo lý và kỷ luật của Giáo Hội đối với
những vi phạm có hại cho sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội trong hoàn
cảnh giáo hội địa phương.
Trở lại vai trò nhân
chứng của người rao giảng, nếu không sống và thực hành những gì
mình giảng dạy cho người khác, thì chính mình cũng
sẽ chẳng được lợi ích gì về mặt thiêng liêng như Thánh Phaolô đã tự
cảnh giác ngài như sau : “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục
tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tội lại bị loại”.
(1 Cor 9: 27).
Bắt thân thể
phải chịu cực và phục tùng có nghĩa là phải chiến đấu với chính bản thân mình để
vượt thắng những trở ngại của bản chất tham sân si để sống đúng với điều mình
dạy bảo người khác hầu nêu gương sáng cho họ và thuyết phục họ tin và sống
điều mình giảng dạy cho họ..
Cụ thể, giảng
yêu thương, công bình và bác ái cho ai thì chính mình phải nêu gương sáng trước
tiên về những nhân đức này, “… để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em , Đấng ngự trên
trời. “ ( Mt 5: 16)
Cũng vậy, giảng khó
nghèo và khiết tịnh (chastity) cho người khác nhưng chính bản thân mình
lại công khai có vợ con, chạy theo tiền của, làm tay sai cho chế độ cai trị để
mưu tư lợi và phá hoại Giáo Hội, bất chấp giáo luật. (x.giáo luật số 285) thì
làm chứng cho ai ?
Lại nữa, người đi
rao giảng mà chỉ làm thân với người giầu có, ban ân huệ riêng cho những người
này, như cho phép nhiều linh mục đồng tế trong những dịp vui buồn của gia đình
họ. Ngược lại, với người nghèo khó, thì coi thường coi rẻ, áp dụng cứng nhắc
luật cấm đồng tế, dù cho gia đình hiếu hỉ có thân nhân làm linh mục cũng không
cho ai đồng tế.
Như vậy, làm
sao có thể là chứng nhân cho Chúa Kitô “Đấng vốn giầu sang phú quý, nhưng đã
tự ý trở nên nghèo khó vì anh em để lấy cái nghèo của mình mà
làm cho anh em trở nên giầu có.”? ( 2 Cor 8 :
Mặt khác, không nên
quá chú trọng xây nhà thờ, hay sửa sang cho đẹp bề ngoài mà không chú tâm xây
đền thờ Chúa trong tâm hồn của mọi tín hữu như đã nói ở trên thì ích lợi gì
?
Có đông tín hữu ngồi
chật kín nhà thờ trong các ngày lễ lớn, mà khi ra về nhiều người vẫn sống thiếu
bác ái, thiếu luân lý thì thà có ít người đến thờ phượng Chúa nhưng
biết sống ngay lành nhờ lời giảng dạy đúng và gương sáng của chủ chăn thì
vẫn quí hơn nhiều. Và đây mới là điều cần thiết phải làm để nên nhân chứng cho
Chúa trong trần thế này.
Nói khác đi, sống
trong một xã hội đã quá tha hóa, tụt hầu nặng nề về luân thường, đạo lý,
về công bình, bác ái và thiếu tình người, thì cần thiết hơn bao giờ hết là phải
nêu cao những giá trị của Kitô Giáo về một đời sống có luân lý, đạo đức, công
bằng, lương thiện và yêu thương để làm nhân chứng cho Chúa Kitô về những giá trị
căn bản này hầu đánh tan bóng đêm của gian tà, và tội ác đang bao phủ môi trường
xã hội ở khắp nơi hiện nay.
Cũng vậy, xây
chủng viện cho to và tốn nhiều tiền của nhưng nếu không dạy cho chủng sinh
– những mục tử tương lai của Giáo Hội - một linh đạo (spirituality) sâu
sắc và quân bình, một kiến thức chuyên môn cần thiết (sufficient or
adequate knowlege), và một tình thần tông đồ nhiệt thành thì sẽ không tránh được
những mục tử sai trái về giáo lý, tín lý, phụng vụ, và mục vụ sau này khi ra
thi hành sứ vụ.
Và
trong viễn ảnh đó, thì thay vì làm nhân chứng cho Chúa , người tông đồ sẽ trở
thành phản chứng do chính công việc mình làm trước mặt người
khác.
Cụ thể, không thể
làm nhân chứng cho Chúa về đức bác ái Kitô Giáo nếu lời giảng dạy và việc làm
của mình lại lỗi bác ái cách nặng nề, khi công khai bêu xấu
người khác trên tòa giảng. Thí dụ: có linh mục quản xứ kia đã loan
báo ở nhà thờ việc cô gái nào có thai trước khi làm đám cưới và đòi cha mẹ cô
phải xin lỗi mọi người trong giáo xứ... Đây mới là việc làm hoàn toàn
có tác dụng phản chứng thay vì là nhân chứng cho Chúa Kitô, Đấng yêu
thương và không muốn ném đá người tội lỗi như bọn Biệt phái xưa định
ném đá một phụ nữ ngoại tình kia. ( Ga 6 :2-11).
Đó là về phía người
có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng và dạy dỗ chân lý của Đạo Thánh mà Chúa Kitô
đã mang từ trời xuống để giảng dạy cách nay hơn 2000 năm..
II- Về
phía người nghe rao giảng Tin Mừng:
Tức mọi tín
hữu trong Giáo Hội, thì làm nhân chứng cho Chúa càng đòi hỏi phải thực thi trong
đời sống của mình giữa bao người khác những gì là cốt lõi của Tin Mừng.
Cụ thể là thực tâm mến Chúa, yêu người, chuộng công bình, thực thi bác ái,
nhất là xa tránh mọi tội lỗi, và mọi thói hư tật xấu của môi trường xã
hội để "... trở nên những con người vẹn toàn của Thiên Chúa giữa
một thế hệ gian tà, sa đọa. Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như
những vì sao trên vòm trời..”( Pl 2: 15).
Lời Chúa trên đây
nhằm để cho ta sống và thực hành hay chỉ là "giáo điều" không thực tế, không áp
dụng được ???.
Thật vậy, sống trong
một thế giới của "văn hóa sự chết", giữa biết bao nhiêu người tôn thờ chủ nghĩa
hưởng thụ vật chất và vui thú vô luân, làm những sự dữ như giết người, gian dâm,
thay chồng đổi vợ, bóc lột, lường đảo, gian ác...chỉ vì không tin có Thiên Chúa
là Đấng trọn tốt trọn lành, công minh, đầy yêu thương và thánh
thiện.
Nếu người Công giáo
cũng sống và hành động như những kẻ vô thần hay dửng dưng với mọi
tín ngưởng nói trên thì làm sao có thể là nhân chứng cho Chúa
Kitô được ?
Nói khác đi, nếu
không thực sự yêu mến Chúa trên hết mọi vinh quang, giầu sang và vui
thú hư hèn ở đời này, để quyết tâm tìm Chúa và sống theo đường
lối của Người, xa tránh mọi tội lỗi, mọi lối sống của "văn hóa sự chết"
thì không những vô ích cho phần rỗi của chính mình mà còn không giúp ích
gì cho ai trong vai trò làm nhân chứng đức tin để mời gọi người khác tin và yêu
Chúa để được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn. (1Tm 2: 4)
Trong viễn ảnh đó,
thì công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô cũng sẽ trở nên vô ích cho những ai chỉ
mang danh Kitô hữu nhưng đời sống, tư tưởng và hành động lại hoàn toàn mâu
thuẫn với nội dung của danh xưng này.
Đó là lý do vì sao
Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ xưa như sau:
“Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: Lậy Chúa, lậy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ
ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời mới được vào mà
thôi.”( Mt 7: 21)
Thi hành ý muốn của
Cha trên trời có nghĩa là phải sống theo đường lối của Chúa, thực thi công bình
và bác ái, xa tránh mọi tội lỗi để trở nên men, muối và ánh sáng của Chúa Kitô
trong một thế giới đang bị ung thối vì tội ác và bao phủ với mây mù của sự
dữ.
Tóm lại, mọi thành
phần dân Chúa trong Giáo Hội đều có sứ mệnh cao cả là làm chứng tá cho
Chúa Kitô trước mặt người đời bằng chính đời sống của mình, bằng việc làm cụ thể
phản ánh trung thực mọi giá trị của Tin Mừng Cứu Độ để mời gọi những
người chưa biết Chúa được tin có Chúa nhờ đời sống nhân chứng đích
thực của mình.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
|