( Viết theo tài liệu Đại Hội Toàn
Quốc của Hiệp Hội Giáo Dân Rao Giảng Phúc Âm " Alpha et Omega
" năm 2003 ở Assisi ).
NGUYỄN HỌC TẬP
Người tín hữu giáo dân ngày nay
được mời gọi đảm nhận lấy một phận vụ tích cực trong Giáo Hội,
can cường trong việc trình bày Chúa Ki Tô cho mọi người, quảng
đại và chân chính nhân chứng Phúc Âm, loan báo hoà bình cho thế
giới.
1- Người tín hữu giáo dân trong
lịch sử.
Nhưng người tín hữu giáo dân là ai?
Khởi đầu từ khảo cổ học, từ ngữ "
tín hữu giáo dân " của Việt Ngữ chúng ta, được phiên dịch
từ " laicus " ( La Tinh ), " laico " ( Ý Ngữ ) và " laique "
( Pháp Ngữ ), đều phát xuất từ danh từ " laòs " ( dân,
Hy Lạp).
Đức Cha Paolo Rabitti, Giám Mục
giáo phận Ferrara, trong bài diễn văn khai mạc Đại Hội đã cho
thấy trong dòng lịch sử Giáo Hội, danh tư " người tín hữu
giáo dân " bị cướp mất đi ý nghĩa đến ba lần. Đó là
- việc chia tách giữa quyền lực
giáo quyền và cộng đồng dân Chúa, do dụng ý của hoàng đế
Constantino, đã " đánh cướp đi " hàng giáo phẩm, tách ra
khỏi chiếc nôi dân chúng của mình, gán cho hàng giáo phẩm quyền
lực chính trị;
- việc đánh cướp lần thứ hai,
là lần chia tách khỏi sự thánh thiện, khi thấy phận vụ rao giảng
Phúc Âm giao phó cho hàng giáo phẩm bị thất thoát, liền được
các dòng tu trên sa mạc đảm lấy, khiến cho người tín hữu giáo
dân bị cột chặt như là những kẻ " biotikoi " làm cản trở cuộc
sống " hay đúng hơn là những kẻ sống bên lề hay có đời sống
tôn giáo không có gì quan trọng đáng chú ý;
- cuộc đánh cướp thứ ba là cuộc
đánh cướp do việc chia tách ra khỏi văn hóa, xảy ra khoản năm
1000, theo đó thì chỉ có " hàng giáo phẩm " mới là những
người thông thái, trong khi đó thì người tín hữu giáo dân là
những kẻ " dốt nát ", " thiếu văn hoá ".
Kế đến Vị Giám Mục nhìn vào hiện
tại, ngài lưu ý mọi người tham dự Đại Hội rằng Giáo Hội với Công
Đồng Vatican II đã thực hiện những bước tiến vĩ đại đối với quá
khứ, khoản thời gian mà người tín hữu giáo dân được truyền lệnh
phải " giữ thinh lặng, vâng lời và đóng góp trả tiền ".
Khúc quanh quan trọng của Công
Đồng có thể được thể hiện bằng ba từ ngữ có tính cách mệnh lệnh
tính: " thông hiệp, sứ mệnh và nhân chứng ".
Giáo Hội không thể nào không có
sự thông hiệp góp sức của tất cả các thành phần của mình. Và
vị Giám Mục lấy một ví dụ thực tế rất dễ hiểu, được diễn tả như
là một tấm vãi nhựa mà đội quân cứu hỏa chăn ra bên dưới, để
những người bị cháy nhà ở các từng lâu trên có thể nhảy xuống
đó, để được cứu sống. Muốn cho tấm vãi được chắc chắn có khả
năng chịu đựng nổi sức nặng của các nạn nhân nhảy xuống, cầm
phải có nhiều người càng tốt, cùng nhau mỗi người một tay phụ
nhau, cùng chung sức thông hiệp nhau, cầm lấy tấm vãi để giữ cho
chặt.
Trong hình ảnh đó, việc rao giảng
Phúc Âm cứu rổi không phải chỉ là bổn phận của một mình Chúa Ki
Tô, mà là liên hệ đến tất cả những ai thuộc về Chúa Ki Tô và đem
về Chúa Ki Tô, hay nói cách khác là tất cả mọi khía cạnh, phương
tiện và chủ đề cần thiết để nhân bản hoá con người và thế giới
con người.
Đức Giám Mục Paolo Rabitti kết
luận, bằng cách nhìn ra hai hai điều thuận lợi, mà tương lai
hiến tặng trong tay các tín hữu giáo dân:
- tính cách toàn cầu hoá, làm
cho các nền văn hoá và các dân tộc xích lại gần nhau hơn, khiến
cho các tôn giáo và các nền luân lý trước đây xa cách nhau, có
thể gặp được nhau và đối thoại với nhau,
- phương tiện truyền thông ,
lãnh vực thích ứng đặc biệt cho người tính hữu giáo dân, làm
cho chúng ta thấy được các hoàn cảnh nghèo khổ và con người bị
chà đạp thảm đạm, nhứt là ở một vài quốc gia độc tài còn sót lại,
làm cho người tín hữu giáo dân có cơ hội để sống sứ mạng truyền
giáo của mình có được một c1i nhìn toàn cầu đến các anh em cần
được cứu giúp
2 - Người tín hữu giáo dân với một
nền văn hoá hoà bình.
Massimo Toschi ( một diễn giả giáo
dân trong Đại Hội) phân tích hiện trạng chúng ta đang sống, như
là " tình trạng của thời chiến tranh " và nhắc lại các
giai đoạn, từ Công Đồng Vatican II cho đến triều đại Đức Đương
Kiêm Giáo Hoàng về một nền hoà bình.
Diễn giả chú ý đến các giai đoạn
diễn biến của nền thần học, đã được thay đổi sau các biến cố
đáng khích lệ năm 1989 ( bức tường Bá Linh sụp đổ), đã hoạt động
tích cực trở lại ba năm sau đó, với cuôc chiến tranh đầu tiên ở
vùng Vịnh và các cuộc chiến tranh đầy thảm đạm kế tiếp ( Somalie,
Balcan, Cecenia, nội chiến ở Afghanistan, Iraq).
Theo diễn giả, chúng ta đang ở
trong " tình trạng chiến tranh ", không phải chiến tranh
" đánh đấm giữa quân đội với nhau ", mà là "chiến
tranh tàn sát đối với thường dân vô tội ".
Trong mười năm trở lại đây, theo
bản đúc kết của một vài nhà thống kê học, cứ trong số 100 người
chết vì chiến tranh, thì có đến 90 người là thường dân vô tội,
nhứt là trẻ em.
Nhưng đứng trước thảm cảnh vừa đề
cập, chúng ta cũng có những lý do để hy vọng. Bởi vì một cách
nào đó, hay dưới một hình thức nào đó, hiện nay đã nẩy sinh một
phong trào đại chúng cho hoà bình, không phải dựa trên ý thức hệ
nữa, như các phong trào " lịch sử trong quá khứ " , mà
là dựa trên kinh nghiệm của những cuộc " chiến tranh vô ích
" và " phá sản ", được dùng như dụng cụ để " làm
chính trị " cùng với các phương tiện khác.
Diễn giả cũng cho biết rằng cuộc
chiến tranh hiện tại ở Iraq, là cuộc chiến tranh dựa vào các
cuộc tuyên truyền " giả tạo " dựa vào lý chứng cho rằng
Iraq có khí giới nguyên tử, có khả năng tiêu diệt tập thể và và
chiến tranh vẫn khai diên, mặc dầu là cuộc chiến không được
quốc tế chính danh hoá cho việc can thiệp bằng vũ lực.
Và từ đó diễn giả Massimo Toschi
kết luận rằng bản tính của Phúc Âm là đem lại đời sống cho cả kẻ
thù, không phải bằng đối đầu và chiến đấu tiêu diệt chúng.
Người tín hữu giáo dân có mục đích
đem Tin Mừng Phúc Âm đến cho mọi người phải là người mang đến
nền văn hoá hoà bình, được diễn tả và thực hiện qua điều răn "
chớ giết người ", biết tha thứ, biết đứng về phía các nạn
nhân bất hạnh, đặt ưu tiên cho tiếng nói lương tâm mình và không
bị sợ hãi cầm giữ, trói buộc.
3 - Mẫu gương của Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolồ II.
Luigi Accatoli, một diễn giả giáo
dân khác trong Đại Hội, một chuyên gia đặc phái viên của nhật
báo Corriere della Sera, tờ báo lớn nhứt nhì ở Ý Quốc,
người có nhiều kinh nghiệm và diễn giả có tính cách thuyết phục.
Ông đã đề cập đến tinh thần và
cách hành xử của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II như là khuyến
khích và mẫu gương cho người tín hữu giáo dân dấn thân vào các
lãnh vực trần thế toàn cầu.
Bốn đặc điểm được làm nổi bậc một
cách đặc biệt:
- đặc điểm thứ nhứt, Đức Thánh
Cha đã thực hiện triều đại giáo hoàng của ngài với tinh thần "
tông đồ ", chớ không còn như là " người cai trị Giáo
Hội ".
Thật vậy, Đức Thánh Cha xác tín
rằng mỗi con người đều có khả năng đón nhận tin loan truyền về
Chúa Giêsu Ki Tô. Như vậy, ngay cả những người tín hữu giáo dân
cũng có thể mạo hiểm trong xã hội hiện đại và toàn cầu hoá với
xác tín rằng mình có thể nói về Chúa Ki Tô cho mọi người.
- đặc tính thứ hai, đó là đức
vâng lời. Chính vì do đức vâng lời mà Đức Thánh Cha chấp nhận
việc tuyển chọn ngài lên ngôi vị Giáo Hoàng, mặc dầu ngài biết
rằng " thật là khó khăn " mà có thể nói về Chúa Giêsu hôm
nay cho thế giới hiện đại, cũng như ngài ý thức các thử thách
lớn lao đang trong thời hiện đại. Bởi đó ngài mời gọi mọi người
chúng ta " hãy phó thác cho Chúa Giêsu Ki Tô ";
- đặc tính thứ ba, đó là "
nhìn con người bằng cặp mắt của chính Chúa Giêsu nhìn họ ",
như những gì chúng ta đọc được trong Thông Điệp Redemptor
hominis, n. 18 của ngài. Điều đó có nghĩa là chúng ta;
* đó là thái độ tích cực phải
có ngay từ lúc khởi đầu, chớ không phải là thái độ xét xử, phán
đoán, kết án đối với thế giới chung quanh chúng ta,
* phải có can đảm đi khắp nơi,
ngay cả những nơi " được khuyên không nên đến ", " hãy
lẫn tránh " : ( Đức Thánh Cha đã đi sang viếng Cuba, và đi
vào đền thờ Hồi Giáo và đền thờ Do Thái Giáo), để có thể cho
thấy rằng chúng ta muốn loan báo Chúa Ki Tô ở bất cứ đâu;
- đặc tính sau cùng là trình
bày Phúc Âm một cách trong sáng và xác thực, " sine glossa
", không quanh co, nhân nhượng, những gì mình phải nói. Thật
là ngoạn mục, Đức Thánh Cha đã lấy lại khẩu hiệu của các phần tử
lạc đạo của hoàng đế Celestino V, được gọi là " các tiểu đệ
có đời sống khó nghèo " ( de paupere vita ), để đề ra một
mẫu gương sống Ki Tô giáo đâm gốc rễ vào Phúc Âm, nhứt quyết
không cải tiến để được tiện nghi và nhân nhượng điều khiển
hơn.
Lòng kiên trì bênh vực sự sống của
ngài, từ lúc mới tượng thai trong lòng mẹ cho đến lúc cuối đời,
được thể hiện bằng những lần ngài lên án các cuộc chiến tranh
gần đây và các án tử hình.
Thái độ kiên trì bênh vực đời sống
đó, không những được đặt trên Phúc Âm là Tin Mừng của sự sống,
mà còn được thúc đẩy bằng kinh nghiệm bản thân của ngài, thoát
xuất từ giáo phận của ngài ở Ba Lan, đã tận mắt chứng kiến những
cảnh khủng khiếp đối với con người trong các lò sát sinh ở
Auschwitz.
Điều đó cho thấy ngay cả các Ki Tô
hữu đơn sơ càng nên có lòng can đảm thực hiện tác động được
trong xã hội, bởi vì họ không phải cịu trách nhiệm của hàng giáo
phẩm, nên dễ thi hành hơn.
Kết luận:
Qua một ít điều được duyệt xét qua
về Nội Dung của Đại Hội Giáo Dân Rao Giảng Phúc Âm " Alpha et
Omega " Assisi 2003, chúng ta càng thấy rõ cần có người tín
hữu giáo dân và gia mình, nhân cội phát xuất và nền tảng, nơi
khởi xướng sứ mạng rao giảng Phúc Âm.
Người tín hữu giáo dân và gia đình
mình cần khám phá ra mối tương quan ơn gọi nhân chứng cho Chúa
Ki Tô, như là " nơi phượng tự mới " trong thế giới ngày
nay và cộng tác với Giáo Hội, do sứ mạng bẩm sinh của mình đòi
buộc từ ngày mình nhận Phép Rửa, chớ không phải là sứ mạng được
Cha Sở, Giám Mục, Hồng Y hay Giáo Hoàng ủy thác cho, hay là sứ
mạng phiến diện, không có gì quan trọng của kẻ " ăn cơm ngụi,
ở nhà ngoài ".
Người tín hữu giáo dân cần phải
được lớn lên, trưởng thành trong hân hoan, can đảm và được đào
tạo, có kiến thức thần học của người sống giữa thị xã trần thế.
Họ chính là những người có nhiều
cơ hội và khả năng thuận tiện hơn để trở thành thân cận với anh
em bằng tâm tình cảm thương và loan báo Tin Mừng giải thoát của
Chúa Ki Tô thay vì sống cuộc sống " khoanh co vỏ ốc "
tiện lợi cho cá nhân mình.
Trong cách sống vừa được diễn tả,
người tín hữu giáo dân không có gì phải âu lo, ái náy, bởi lẽ
- bên cạnh họ còn có hàng giáo
phẩm
- và cuộc sống của người tín
hữu giáo dân, con Chúa là cuộc sống phó thác vào Lời Chúa đầy uy
lực và êm dịu, có thừa khả năng để cải hoá tâm hồn anh em, mà
mình muốn đem trở về với Chúa.
|