Sứ điệp Fatima đã tự vượt qua
được mọi thách đố
Nói một cách khách quan, trước hết
người ta phải công nhận rằng sau hơn 90
năm biến cố Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ
Thiên Chúa, hiện ra tại Fatima vào năm 1917 với ba trẻ
chăn chiên đã nghiễm nhiên trở thành một sự
kiện lịch sử khách quan, đã tác động một
cách mạnh mẽ và đã gây được những ảnh
hưởng sâu rộng trên cuộc sống của hàng triệu
người, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội,
như chúng ta chứng kiến hiện nay.
Nhưng một sự thật khác
người ta cũng cần phải ghi nhận, đó là nếu
ngày nay biến cố Fatima đã đạt được
những thành quả tích cực và thực tiễn, đã
chinh phục được thế giới, hay nói đúng
hơn, đã chinh phục được sự xác tín của
hàng triệu tâm hồn như thế, thì không phải do ảnh
hưởng của bất cứ quyền lực ngoại
tại nào khác, nhưng là do chính sức mạnh siêu nhiên của
Sứ điệp Fatima. Do đó, Đức Hồng Y
Cerejeira, Thượng Phụ Lissabon, thủ đô Bồ
Đào Nha, đã phát biểu: „Không phải Giáo Hội
đã làm cho thế giới chấp nhận Sứ điệp
Fatima, nhưng chính Sứ điệp Fatima đã tự chinh
phục được thế giới“(1).
Thật vậy, từ khởi đầu
cho tới mãi ngày nay, Sứ điệp Fatima vẫn luôn phải
đối mặt với những chống đối
đến từ nhiều phía, nhất là những thóa mạ
hằn học cũng như những cáo buộc vô căn cứ
của những kẻ thù của Giáo Hội, như các thành
phần thuộc hội Tam điểm và những kẻ vô
thần, khi họ chủ quan cho rằng biến cố
Fatima chỉ là một sự lừa gạt dối trá và
tinh xảo của hàng Giáo Sĩ, nhất là của mấy
ông thầy Dòng Tên bày bịa ra. Nhưng sự
thật luôn vẫn là sự thật và chiến thắng sau
cùng bao giờ cũng thuộc về sự thật.
Vâng, cuộc chiến của những kẻ thù Giáo Hội
chống lại Sứ điệp Đức Mẹ Fatima
có mưu mô, xảo quyệt và thâm độc đến
đâu đi nữa, thì sau cùng vẫn vô hiệu quả và
hoàn toàn bị thất bại chua cay. Đó là
một điều tất yếu; vì làm thế nào mà sức
mạnh tự nhiên có thể chiến thắng được
sức mạnh siêu nhiên? và làm thế
nào mà con người là một thụ tạo hèn yếu lại
có thể chiến thắng được Thiên Chúa Tạo
Hóa toàn năng? Việc làm của những kẻ
thù Giáo Hội chống đối và thóa mạ Sứ điệp
Fatima
là một việc làm khờ dại, là việc lấy trứng
chọi với đá. Sau đây chúng ta
hãy nhìn lại sự diễn tiến của những thái
độ ấy đối với Sứ điệp Fatima.
1. Kẻ thù Giáo Hội: Fatima
là một bịa đặt của hàng Giáo Sĩ
Nhưng trước khi đi sâu vào
những luận cứ vô lý của những kẻ thù Giáo Hội nói chung và của những
kẻ thù của Sứ điệp Fatima nói riêng, chống lại
sự thật siêu nhiên của biến cố lịch sử
Fatima, chúng ta hãy nhìn qua những biến động chính trị
của nước Bồ Đào Nha vào tiền bán thế kỷ
XX.
Sau khi loại bỏ thể chế
quân chủ vào năm 1910 và tiếp liền sau đó vào
năm 1911 là sự tách biệt hoàn toàn giữa Nhà nước
và Giáo Hội, giữa chính trị và tôn giáo. Và trên thực tế,
hậu quả của sự tách biệt này đã không nhằm
mục đích là đưa Nhà nước vào vị thế
trung lập trong những vấn đề thuộc tôn giáo,
như người ta bình thường vẫn dự
đoán một cách lý thuyết, nhưng là sự loại trừ
hoàn toàn tất cả mọi sinh hoạt tôn giáo ra khỏi
đời sống công cộng, đến nỗi việc
tổ chức các cuộc rước kiệu hay các lễ
nghi tôn giáo bên ngoài các Nhà Thờ, Nhà Nguyện hay Tu viện
đều bị nghiêm cấm. Nhà cầm quyền Cộng
hòa ở Bồ Đào Nha vào lúc bấy giờ tuyên truyền
chủ nghĩa tự do phóng khoáng dưới hình thức sự
tự do tư tưởng hoàn toàn và theo khuynh hướng
hội Tam điểm. Theo họ, một người có
tư tưởng tự do là người không bị ràng buộc
hay lệ thuộc bởi bất cứ uy quyền hay thế
giá nào (thường được hiểu là uy quyền
tôn giáo), nhưng hoàn toàn chỉ dựa theo
các nguyên tắc hợp lý của trí năng. Nói cách khác, theo
quan điểm này, thì chỉ hiện hữu những gì trí
năng con người có thể kiểm chứng được,
còn những gì khác nằm ngoài phạm trù hiểu biết của
trí năng đều chỉ là giả tưởng, hoàn toàn
không hiện hữu.
Nhưng nếu người ta chỉ
công nhận sự hiện hữu của những gì đã
được trí năng kiểm chứng bằng các nguyên
tắc hợp lý, thì tất nhiên đối với họ,
các thực tại siêu nhiên, các mầu nhiệm, các lần
hiện ra của Đức Trinh Nữ Maria và các phép lạ
mà Thiên Chúa đã thực hiện qua sự can thiệp của
Mẹ Maria, trước hết là phép lạ trọng đại
„mặt trời quay“ vào ngày 13.10.1917, không chỉ là một
sự dối trá bịp bợm, mà còn là một sự khiêu
khích đối với cả nhân loại. Vâng, đối với
họ, một người hoàn toàn có tư tưởng tự
do, thì không thể nào hiểu được là làm sao một
người hợp lý lại có thể chấp nhận
được hiện tượng một mặt trời
vĩ đại, có sức nóng khủng khiếp, luôn đứng
quay tại chỗ và là trung tâm điểm của cả một
hệ thống các hành tinh bao la rộng lớn hầu
như ngoài sức tường tượng của con
người như thế, lại có thể quay cuồng nhảy
lộn gần sát mặt đất như một vòng lửa
được. Theo họ, những ai chấp nhận và
tin theo điều vô lý ấy, thì chắc chắn hoặc
là một người ngu ngốc – cũng vì thế người
ta thường ghép các tín hữu Công Giáo vào thành phần những
kẻ ngu muội và thiếu học thức –, hoặc là một
người thiếu thành thật, nếu như người
đó có trí năng thông minh bình thường.
Theo bộ tài liệu hoàn toàn mang tính
cách phê bình khách quan về biến cố Fatima „Documentacáo
Critica“, gồm tám tập, vừa được Trung tâm
Hành hương quốc tế Fatima xuất bản, thì những
kẻ thù cực đoan chống đối biến cố
Fatima cho rằng Fatima chỉ là trò hề (Comedia), chỉ là
một sự lừa đảo của những kẻ phản
động (burla reaccionaria), của các Giáo sĩ, của mấy
ông Thầy Dòng Tên. Và họ đã hô hào: „Hỡi những
người có tư tưởng tự do, hãy đứng
lên trục xuất mấy ông Thầy Dòng Tên, hãy dẹp bỏ
những trò hề Fatima“.
Còn thái độ đầy ghen
tượng và ngạo mạn đối với ba trẻ
được nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra, một
nữ phóng viên sau khi đã viết trong một bài báo những
lời hết sức khiếm nhã: „sem educacáo nem
inteligencia tipos bocais: lũ thiếu giáo dục, thiếu hiểu
biết, bọn người ngu đần“, còn mỉa
mai: „phải chăng mặt trời đã bỏ vị
trí của nó trong vũ trụ?“(2) Chính nữ phóng viên này cũng vì thế
đã nhạo báng cả việc lần hạt Mân Côi của
các tín hữu Công Giáo. Và ảnh hưởng của những
kẻ thù quá khích, của Giáo Hội nói chung và của Sứ
điệp Đức Mẹ Fatima nói riêng, đã gây nên những
hiểu lầm và những tác hại không nhỏ trên quan niệm
nhiều người đương thời, đến nỗi
người ta đã cho rằng việc xây dựng các
vườn trẻ và trường học phải
được ưu tiên hàng đầu và quan trọng
hơn việc xây dựng các Thánh Đường và Nhà Nguyện.
Nhưng ở đây người
ta tự hỏi: Nếu vậy, theo ý kiến những kẻ
tự cho mình có tư tưởng tự do, tức những
kẻ phủ nhận và chống đối một cách cực
đoan Sứ điệp Đức Mẹ Fatima, thì lý do
nào đã thúc đẩy các Giáo Sĩ tin tưởng và truyền
bá „trò hề“ Fatima?
Dĩ nhiên theo họ, trước hết
phải là „lý do chính trị“ (uma
especulacáo politica). Những kẻ thù của
Giáo Hội và của Sứ điệp Fatima đã chủ quan
và bất công tố cáo hàng Giáo Sĩ Bồ Đào Nha đã
bịa đặt ra biến cố Fatima để nhằm
mục đích tái khôi phục lại thể chế Quân chủ
độc đoán và lỗi thời. Họ cũng cho
rằng tham vọng bá quyền và có lẽ cả lòng ham hố
tiền bạc là „lý do duy nhất“ (uma especulacáo
clerical) của „trò hề“ Fatima do các Giáo Sĩ bịa
đặt ra.
Nhưng chính những tư duy chủ
quan, một chiều và thiển cận của những kẻ
tự cho mình là những người có tư tưởng tự
do và tiến bộ đã vô tình trở thành những rào cản
ngăn chặn họ trên con đường tìm gặp
được đức tin chân chính, trên con đường
khám phá ra và nhận thức được những thực
tại siêu nhiên và những mầu nhiệm cứu rỗi
trọng đại. Vì cố thủ trong bóng tối duy lý của
họ, nên đa số họ đã không có mặt tại
Fatima vào ngày 13.10.1917, để có thể chứng kiến tận
mắt phép lạ vĩ đại „mặt trời quay“
(3xin xem Lm Nguyễn Hữu Thy, Sứ
điệp Fatima, Trung tâm Mục Vụ CGVN Giáo phận
Trier/CHLB Đức xuất bản, Trier 2008, trang 73) như
hàng ngàn người khác – ước lượng vào khoảng
từ 50 đến 70.000 người – và cũng vì thế
họ vẫn là những kẻ vô tri trước những
thực tại siêu nhiên cao cả ấy.
2. Cuộc chiến chống
đối Fatima đầy thảm
bại chua cay
Tất cả những ai có hiểu
biết và phán đoán bình thường đều cảm thấy
những lời chỉ trích và chống đối cực
đoan biến cố Fatima của những người vô
thần và của những thành phần hội Tam điểm,
những người tự cho mình là có tư tưởng tự
do tiến bộ như vừa nói trên, khi cho rằng sự
kiện Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, hiện
ra với ba trẻ chăn chiên ở Fatima là sự bịa
đặt của các Giáo Sĩ với mục đích tìm
cách khôi phục lại chế độ Quân chủ, là hoàn
toàn thiếu trung thực và vô căn cứ. Trong bộ hồ
sơ „Documentacáo Critica“ người
ta tìm gặp được những dẫn chứng quan trọng
và cụ thể, minh chứng sự vô lý và thiếu căn
cứ của những thái độ phủ nhận, chống
đối và thoá mạ sự thật hiển nhiên của
biến cô Fatima.
Trước hết có lẽ
chúng ta phải nói đến thái độ của hàng Linh Mục
nói chung. Khởi đầu, hầu như tất cả
các vị đều nghi ngờ và hờ hửng đối
với những tin tức và những đồn thổi về
việc Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ tại
Fatima(4):
Chẳng hạn một vị Viện
Phụ đã công khai khen ngợi một tờ báo Công Giáo vì
đã có thái độ phủ nhận biến cố hiện
ra của Đức Mẹ và ngài cho đó là một thái
độ khôn ngoan trong sứ mệnh bảo vệ giáo lý
chân chính của Giáo Hội.
Nhất là vị Linh Mục Quản
xứ Fatima vào lúc bấy giờ cũng cảm thấy là
ngài cần phải có lập trường rõ ràng về sự
kiện Fatima, sau khi ba trẻ bị nhà cầm quyền bắt
giam vào tháng 8.1917, đó là ngài đã hoàn toàn phủ nhận sự
kiện hiện ra. Dẫn chứng rõ ràng về thái độ
phủ nhận của vị Quản xứ này, trước
hết ngài đã đồng quan điểm với ông quận
trưởng là cần phải có biện pháp mạnh
ngăn chặn những gì liên quan tới sự kiện
Fatima và tiếp đến là ngài đã không bao giờ có mặt
tại đồi Cova da Iria trong các ngày 13 mỗi tháng, khi
Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ.
Còn các vị Linh Mục khác, những
vị đã từng đến thăm và tìm hiểu ba trẻ
Fatima, thì thường đã làm cho các em sợ hãi khi phải
đối diện và phải trả lời những câu hỏi
khó khăn và phức tạp các ngài nêu lên, kèm theo những
thái độ nghiêm nghị, nếu không nói là đầy
đe dọa của các ngài.
Vậy, nếu hầu như tất
cả hàng Giáo Sĩ Bồ Đào Nha lúc bấy giờ đều
có một thái độ xa lạ, hờ hửng, nếu
không nói là hoàn toàn phủ nhận biến cố Fatima như
thế – ít là lúc đầu –, thì làm sao người ta có thể
gán ghép cho các ngài đã xúi dục hay bịa đặt ra biến
cố Đức Mẹ hiện ra được?
Đàng khác, nếu trên thực tế,
lúc đầu thái độ xa lạ và chống đối
của hàng Giáo Sĩ đã gây cho biến cố Đức
Mẹ hiện ra cũng như cho ba trẻ thị kiến
nhiều trở ngại khó khăn, thì chính thái độ ấy
lại biện minh cho sự vô can của các Giáo Sĩ trong
vụ việc và nhất là càng minh chứng cho xác thực của
biến cố. Hơn nữa, chính đoàn lũ
đông đảo dân chúng lúc bấy giờ, những
người từng chứng kiến và hoàn toàn xác tín sự
thật của biến cố, cũng đã phàn nàn là họ
cảm thấy bị hàng Giáo Sĩ bỏ rơi. Do đó
người ta có thể nói được rằng trong biến
cố Fatima, nếu đứng về phía nhân loại mà
nói, thì dân chúng là chủ động còn các Giáo Sĩ hoàn toàn
bị động, nghĩa là các Giáo Sĩ chỉ là những
người bị quần chúng lôi cuốn theo mà thôi. Đó
cũng là một bằng cứ rõ ràng chứng minh cho thấy
những lời tố cáo và buộc tội của những
người tự nhận có tư tưởng tự do tiến
bộ và những thành phần thuộc hội Tam điểm
cho rằng biến cố Đức Mẹ hiện ra ở
Fatima là trò hề, là sự bịa đặt của các vị
Linh Mục, hoàn toàn hồ đồ và vô căn cứ.
Ngoài ra, một thực tại khác
cũng khiến người ta phải suy nghĩ, đó là
để có thể tạo nên một sự bịa đặt
giả dối như thế trong hoàn cảnh thực tế
vào lúc bấy giờ ở Bồ Đào Nha là một điều
hoàn toàn bất khả, vì các quyền hạn, uy thế và ảnh
hưởng của Giáo Hội đều hầu như
được giới hạn trong Hội đồng các
Giám Mục(5). Thế nhưng trong thời
điểm Đức Mẹ hiện ra, Fatima thuộc Tổng
Giáo phận Lissabon dưới quyền Đức Hồng
Y Thượng Phụ D. Antonio Mendes Belo, mà vào lúc bấy giờ
ngài đang bị đày biệt xứ. Và chỉ từ
tháng giêng năm 1918, Leiria-Fatima mới được
ĐTC Bênêđíctô XV nâng lên hàng Giáo phận và vào năm 1920,
Đức Cha José Alves Correia da Silvo được đặt
làm Giám Mục tiên khởi.
Mặc dù lúc đầu, Đức
Tân Giám Mục cũng tỏ ra dè dặt, nhưng người
ta phải nhìn nhận rằng vị Giám Mục tiên khởi
này là một hồng ân, là một may mắn cho tân Giáo phận
Leiria-Fatima nói chung và cho biến cố Fatima
nói riêng. Thật vậy, lần đầu tiên vào năm
1921, Đức Cha José Alves Correia da Silvo đã ban phép cho cử
hành Thánh Lễ tại chỗ Đức Mẹ hiện ra ở
ngọn đồi Cova da Iria, và đồng thời ngài
cũng cho tổ chức một chương trình Mục Vụ
tổng quát cho khách hành hương, đang mỗi ngày một
đông đảo thêm. Trong khi ngài có một
quan điểm tích cực đối với biến cố
Fatima
như thế, thì các Giám Mục khác ở Bồ Đào Nha vẫn
có thái độ nghi ngờ (6). Điều này lại
một lần nữa minh chứng cho thấy rằng Hội
đồng các Giám Mục Bồ Đào Nha không thể là những
người đã „chủ xướng“ hay đã bịa
đặt ra biến cố Fatima.
Còn về những chống đối
và thóa mạ khác, Đức Cha José Alves da Silva đã đề
cập đến rất đầy đủ trong Thư
Chung đề ngày 13.10.1930 gửi cho các thành phần dân Chúa
trong Giáo phận của ngài. Trong đó ngài thông báo kết quả
tích cực về biến cố Fatiam của Ủy ban
Điều tra do ngài thiết lập (7), nhất là để
bịt miệng những lời vu khống, chê bai và sỉ
nhục ba trẻ Fatima là lũ vô học thức, dốt
nát, thì Đức Giám Mục đã trích lời thánh Phaolô
trong Thư Cô-rin-thô để trả lời cho họ,
như sau: „Thưa anh em, anh em hãy thử nghĩ lại
xem: khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em
đâu có mấy ai khôn ngoan trước mặt người
đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy
người quý phái. Nhưng những gì thế gian cho là
điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ
nhục những kẻ ngôn ngoan, và những gì thế gian
cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ
nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian
cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa
đã chọn để hủy diệt những gì hiện
có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước
mặt Người“ (1Cr 1,26-29). Cũng chính vì thế,
Chúa Giê-su đã truyển chọn các Tông Đồ vốn là
những người làm nghề chài lưới đơn
sơ, vì Thiên Chúa thường kén chọn những gì người
đời cho là kém giá trị.
Một điểm khác cũng
đáng nghi nhận nữa, đó là tuy ba trẻ hoàn toàn bị
tách biệt mỗi em một nơi, nhưng tất cả
các câu trả lời của các em trước các câu hỏi
của các nhà chức trách, đời cũng như đạo,
đều rõ ràng và hoàn toàn trùng hợp với nhau trong từng
chi tiết nhỏ, chứ không một chút mâu thuẫn. Hơn nữa cả ba trẻ Fatima đều nhất
mực từ chối tất cả mọi quà tặng của
bất cứ ai và dưới bất cứ hình thức gì.
Ngay trong phần mở đầu
Thư Chung của ngài đề ngày 03.5.1922 (8), nhân dịp
thành lập „Ủy ban Điều tra“ biến cố
Fatima, Đức Giám Mục Giáo phận Leiria-Fatima đã
đề cập nhiều tới một vấn đề
khác: Vấn đề các phép lạ. Và các phép lạ ở
đây, trước hết người ta phải nói đến
phép lạ – o milagre – mặt trời quay, và dĩ nhiên
cũng bao gồm cả những phép lạ được
khỏi bệnh một cách lạ lùng của các bệnh
nhân thuộc đủ mọi thứ bệnh, vì đã
vượt khỏi biên giới các khả năng chuyên môn của
y khoa.
Nhưng đồng thời
Đức Giám Mục cũng tránh đi sâu vào các chi tiết
của biến cố, mà các báo chí lúc bấy giờ đang
đưa ra bàn cãi sôi nổi. Ngài chỉ xác định
rằng các phép lạ xảy ra tại Fatima là một minh chứng
hùng hồn cho thấy trong biến cố ấy có „bàn tay
vô hình“ của Thiên Chúa can thiệp vào,
mặc dầu với sự khôn ngoan thượng trí của
Người, Thiên Chúa luôn tôn trọng các luật tự
nhiên mà chính Người đã thiết đặt cho sự
tuần hoàn trật tự của vũ trụ, chứ
Người không dễ dàng làm phép lạ, trừ khi hoàn cảnh
đòi hỏi một cách nhất thiết. Bởi
vì, phép lạ là một hiện tượng ngoại thường
và vượt tự nhiên.
Vì thế, vấn nạn phép lạ mặt
trời quay thường đã được đưa ra
phân tích, mổ xẻ và bàn cãi ngay cả trên các nhật báo hồi
ấy, đến nỗi có người đã nêu lên thắc
mắc là phải chăng xét về phương diện
thiên văn học đã có sự thay đổi nào đó ở
mặt trời? Và nếu câu trả lời là
không, thì người ta sẽ đi đến kết luận
là trong vụ việc Fatima đã xảy ra hiện tượng bệnh tâm thần
tập thể, khiến cho cả đám quần chúng
đông đảo bị cuốn hút vào một ảo giác.
Nhưng thiết tưởng một
sự kết luận như thế là quá hàm hồ, thiếu
lý tính và thiếu tính cách thuyết phục, vì người
ta tự hỏi là làm thế nào một ảo giác bệnh
hoạn lại có thể tạo được những cảm
xúc, những cảm nhận và những trải nghiệm
đồng nhất nơi một tập thể đông
đảo vào khoảng từ 50 đến 70.000 người
như phép lạ mặt trời quay vào ngày 13.10.1917 tại
Fatima?
Ngay cả ý nghĩa và sự tác động
của phép lạ mặt trời quay trên vấn đề
đức tin cũng được đưa ra bàn luận,
và người ta đã tự hỏi: Phải chăng
đó là chứng cứ của đức tin, nghĩa là một
điều bó buộc phải tin, một sự kiện của
siêu nhiên đòi phải chấp nhận?
Một ví dụ điễn
hình chúng ta có thể trích dẫn một suy tư sau đây
được đăng trên tờ báo O Almonda (9).
Tác giả bài báo hoàn toàn bác bỏ ý kiến cho rằng biến
cố Fatima và các phép lạ (đặc biệt phép lạ mặt
trời quay) đã xảy ra tại đó chỉ là sáng kiến
của những người Công Giáo, của các Thầy Dòng
Tên bày đặt ra, cốt để tìm hiểu xem liệu
người ta có thể quảng bá sự mê tín trong dân chúng
đến mức độ nào. Tác giả bài báo cũng xác
nhận rằng chẳng những Giáo Hội Công Giáo không hề
tham gia vào biến cố đó, vì phản ứng khôn ngoan
muôn thuở của Giáo Hội là trước tiên luôn tỏ
ra dè dặt trước tất cả những gì xảy ra
tại Fatima, cũng như Giáo Hội từng cư xử
đối với sự kiện Đức Mẹ hiện
ra trước kia tại Lộ Đức hay tại bất
cứ nơi nào khác. Tác giả bài báo còn viết
tiếp là với các phép lạ người ta cũng không
thể giải tỏa được thắc mắc đầy
tranh cãi về sự thật của biến cố. Về
điểm này, tác giả đã đề cập đến
trường hợp các người Tin Lành và nhất là
trường hợp Thủ tướng Pháp Freycinet vào lúc bấy
giờ, một người vô thần. Nhưng chính Thủ
tướng Freycinet đã khuyên người bạn thân của
mình là ông Lasserre, một người tín hữu Công Giáo bị
mù, hãy lấy nước suối Đức Mẹ Lộ
Đức mà rửa mắt. Nhưng người bạn của
Thủ tướng đã từ chối, không chịu lấy
nước ở hang đá Lộ Đức để rửa
mắt, vì ông ta sợ là nếu được lành bệnh
thì cuộc sống của ông ta sẽ phải thay đổi.
Nhưng cuối cùng ông cũng đành chấp nhận lấy
nước hang đá Đức Mẹ Lộ Đức xức
vào mắt mình, và bỗng nhiên ông ta đã hết mù và nhìn thấy
được. Sau khi được khỏi bệnh, ông
ta đã viết nhiều sách có giá trị về phép lạ
Đức Mẹ Lộ Đức. Trong khi đó, mặc dầu
đã đích thân được trải nghiệm những
phép lạ hiển nhiên như thế và đã sống đến
95 tuổi đời, Thủ tướng Freycinet vẫn vô
thần chứ không ăn năn hối cải. Và tác giả
bài báo đã kiết luận: Quả thực „chỉ phép
lạ một mình mà thôi thì không thể hoái cải được
ai cả“. Ngoài ra tác giả cũng nhắc
đến thái độ tương tự của ông E.
Zola. Trong cuốn sách của ông viết về
Lộ Đức, Zola đã hoàn toàn không đả động
gì tới các tường thuật về phép lạ mà chính
ông đã trải nghiệm, nếu không nói là ông còn truyền
bá các ý kiến sai lạc của mình.
Còn tác giả bài báo đã nói trên,
dĩ nhiên ông ta có lý khi cho rằng một phép lạ không thể
bó buộc ai phải tin theo, vì thực ra phép lạ là quà tặng
nhưng không của Thiên Chúa, là một ơn lành Chúa ban –
như nơi trường hợp những người tin
tưởng vào sự xác thực của biến cố hiện
ra – và chính những người có tư tưởng tự
do và những người vô thần cũng đã tỏ ra
vô cùng bối rối và bất an trước các phép lạ
mà họ đã chứng kiến nhãn tiền. Tuy
nhiên, qua các suy tư của mình, tác giả đã tỏ ra
không nhìn thấy được điều đó, và cho rằng
đức tin chỉ có thể được củng cố
bằng các luận cứ hợp lý mà thôi.
Mặc dầu các tư tưởng
trên mang tính cách hòa hoãn, nhưng trên thực tế quan điểm
của hai phía, của các tín hữu Công Giáo cũng như của
những kẻ vô thần, hoàn toàn bất hòa giải, hoàn
toàn không thể dung hòa với nhau được, như thể
nước và lửa.
Thật vậy, một đàng, các
người tự nhận có tư tưởng tự do tiến
bộ khẳng định rằng chủ thuyết duy lý của
họ không thể chấp nhận được những
hiện tượng siêu nhiên vượt ra ngoài phạm vi của lý trí. Họ chỉ chấp nhận
phép lạ mặt trời quay theo nghĩa thiên văn-vật
lý học, và họ cho rằng chiến lược của
những người Công Giáo là một chủ đích thiếu
thành thật, tức vì chỉ muốn thí nghiệm xem quần
chúng thiếu học thức có thể chấp nhận sự
mê tín của họ đến mức độ nào. Vì thế,
trong „Der freie Gedanke“ ký giả José Lopes dos Santos
đã viết những lời chống lại các người
mà ông gọi là „bọn phản động“ và các Thầy
Dòng Tên (10) như sau: „Chúng tôi không chống lại những
xác tín về đức tin của quần chúng tốt,
nhưng chúng tôi chỉ chống lại sự tuyên truyền
lố lăng về những phép lạ, mà nếu
được nhìn dưới ánh sáng khoa học thì toàn là
những điều không thể có được,
như trường hợp các phép lạ Fatima. Đấy
chỉ là công trình lừa đảo đồ sộ do mấy
ông Thầy Dòng Tên dàn dựng lên, cốt ngăn cản quần
chúng không đặt niềm tin tưởng vào sự hết
sức khả tín của những người có tư
tưởng tự do (…). Phải chăng những
kẻ phản động đã đồng lõa với nhau
để chống lại sự tiến bộ? (…) Vậy,
hỡi những người có tư tưởng tự do,
hãy tỉnh thức!“ Tiếp
đến, Lopes kêu gọi hãy chiến đấu cho chân lý,
cho sự công bằng và cho sự tự do tư tưởng.
Một tờ truyền đơn „Hỡi quần chúng có
tư tưởng tự do, hãy vùng đứng lên“
(như trên, Doc. 307) của một nhóm người bài Giáo
sĩ khác cũng đã kêu gọi tương tự là hãy
đem tình yêu chống lại hận thù, đem sự thiện
chống lại sự ác (dĩ nhiên theo quan điểm chủ
quan của họ), đã viết: „Chúng ta hãy lấy khoa học
làm tôn giáo của chúng ta và tôn giáo khoa học của chúng ta
là sự tự do tư tưởng.“ – „Từ sự
chiến thắng của tiến bộ, của khoa học,
của sự tự do, của sự tư duy tự do, con
người sẽ lãnh nhận được sự hạnh
phúc, niềm vui, tình yêu, tình huynh đệ.“
Còn phía những tín hữu
Công Giáo, những người tin tưởng vào sự xác
thực của biến cố Đức Mẹ hiện ra ở
Fatima,
sẽ phản ứng ra sao?
Trước hết, người ta
đã cố gắng tránh loan báo một cách quá vội vàng và
chưa chắc chắn rõ ràng về các phep lạ. Các hiện
tượng được khỏi bệnh một cách lạ
lùng cần phải được các bác sĩ xét nghiệm
và chứng thực một cách hoàn toàn khách quan(11).
Đặc biệt nhất
là phép lạ mặt trời quay, một phép lạ đã
được bài cãi và phân tích rất cặn kẽ. Ở đây một điểm đáng ghi nhận
là vào năm 1917 người ta đã có thể chụp
được các hình ảnh về phép lạ đó và chính
những hình ảnh ấy là những bằng cứ rất
thực tiễn, góp phần tích cực vào các cuộc tranh
luận. Dĩ nhiên, đó không phải là
những bức hình đã chụp trực tiếp
được chính mặt trời khi nó quay cuồng bay lộn,
nhưng là chụp những phản ứng của đám quần
chúng hiện diện lúc ấy ở Fatima. Qua những
bức hình giá trị lịch sử ấy, người ta
thấy có người đang nhìn vào ống kính của các
máy chụp hình, có người lại lấy tay
che trên mắt và hướng nhìn lên trời. Rồi có hình
chụp cả một đám quần chúng đông đảo,
kẻ đứng người quỳ gối, đang
chăm chú nhìn lên trời như đang theo dõi một sự
kiện gì đó, v.v…(12). Những phản
ứng ấy cho thấy là hiện tượng hay phép lạ
mặt trời quay là có thật và đã tạo nên những
ấn tượng mạnh không thể diễn tả
được nơi hàng ngàn ngàn người có mặt hôm
đó tại Fatima.
Nhưng người ta
có thể cắt nghĩa điều ấy như thế
nào? Những người tự nhận tiến bộ,
có tư tưởng tự do và vô thần, thì cho hiện
tượng đó chỉ là một sự cố thuộc vật
lý-thiên văn học, và vì thế họ đã hoàn toàn phủ
nhận việc coi đó là một sự thật siêu nhiên,
vì họ sợ rằng ý niệm về tôn giáo lại tái hồi
sinh, một ý niệm vốn đã chết từ lâu nơi
nhiều người ở Bồ Đào Nha, nhất là
nơi những người tự cho mình là thành phần trí
thức và cấp tiến. Hơn nữa, người ta
cũng xác nhận là các nhà thiên văn học với những
máy móc khoa học tối tân của họ cũng đã không
ghi nhận được gì cả về hiện tượng
„mặt trời quay“ và những
người ở chung quanh vùng Fatima cũng không ghi nhận
được gì (13) về những hiện tượng
mà khoảng 70.000 người khác ở tại Fatima đã tận
mắt chứng kiến. Nhà thiên văn học Fr. Oom (14) giải
thích rằng nếu giả thử có sự cố thuộc
không gian đã thực sự xảy ra, thì tất nhiên các
máy móc khoa học đã có thể ghi lại được,
nhưng trong trường hợp „Fatima“ thì các máy móc chẳng
ghi nhận gì hết. Vì thế, ông cho rằng hiện
tượng hàng ngàn người nhìn thấy mặt trời
quay vào ngày 13.10.1917 tại Fatima là một sự
„thôi miên tập thể“ (sugestáo coletiva).
Nhưng chính những bức hình ghi lại
những phản ứng khác nhau của đám quần chúng
quá đông đảo đang có mặt tại hiện
trường lúc bấy giờ đã làm cho người ta
phải nghi ngờ lời giải thích của nhà thiên
văn học Fr. Oom. Thật vậy, nếu
đó quả thực là một sự thôi miên tập thể,
thì đương nhiên mỗi người trong đám quần
chúng ấy khi nhắm mắt lại vẫn còn tiếp tục
bị ảnh hưởng sự thôi miên ấy.
Chẳng bao lâu sau đó, phép lạ mặt
trời quay tựa như một làn chớp, đã
được loan truyền hết sức nhanh chóng ra khắp
nơi ở Bồ Đào Nha và trên thế giới bằng
miệng và thư tín của khoảng 50 đến 70.000
nhân chứng sống động đã có mặt tại
Fatima trong ngày hôm đó, chứ không phải bởi các
phương tiện truyền thông đại chúng như
trong các biến cố khác; trái lại, nếu không nói là
đại đa số trong các phương tiện truyền
thông tại Bồ Đào Nha lúc bấy giờ đã hết
lời nhạo cười và chế giễu. Nhưng đối mặt với thái độ
khôn ngoan dè dặt (prudente reserva) của hàng trí thức Công
Giáo (os entenditos), những người có tư tưởng
tự do và vô thần luôn chờ đợi một tuyên bố
công khai về hiện tượng mặt trời quay.
Nhưng phải chăng con người có
đủ thẩm quyền để giải thích hay tuyên bố
về một „điều siêu nhiên“?
Các cuộc hành hương vĩ
đãi tới đồi Cova da Iria, nơi Đức Mẹ
hiện ra, là những dấu tích hữu hình và cụ thể
của sự kiện, vào các ngày 13 mỗi tháng, nhất là
các ngày 13 tháng năm và 13 tháng mười là những ngày hành
hương đặc biệt nhất. Mỗi
cuộc hành hương như thế thường có tới
hàng chục ngàn người thuộc đủ mọi thành
phần xã hội tham dự.
Ở đây, có lẽ người ta
cũng cần phải nhắc đến đức tin mạnh
mẽ và lòng hy sinh to lớn của các khác hành hương.
Vì điều kiện hạ tầng cơ sở –
đường sá đi lại, điều kiện ăn
ngủ, cho khách hành hương – ở Fatima vào thời gian
đầu còn quá thô sơ thiếu thốn, nên đa số
khách hương từ khắp nước đã đi bộ
suốt đêm, dù trời mưa hay nắng, và sau khi đã
sốt sắng xem lễ, lần hạt Mân Côi và kính viếng
nơi Đức Mẹ hiện ra, họ lại lên
đường trở về nhà trong cùng ngày, cũng có nhóm
người ngủ qua đêm ngoài trời hoặc trong các
Nhà Thờ.
Và trên đường đi hành
hương như thế, tất cả mọi người
đều cùng nhau lớn tiếng lần hạt Mân Côi hay
hát các bài Thánh ca. Mặc dầu đi đường xa mệt
nhọc vất vả và còn phải kiêng ăn uống (15) mọi
người đều đông đảo tập trung về
nhà thờ Giáo xứ Leiria hay Giáo xứ Fatima để xem lễ
và rước lễ. Ngoài ra, theo luật
cũ xưa kia, mọi người còn phải xưng tội
trước khi rước Mình Thánh Chúa nữa. Và đối
với các khách hành hương tới vào bất cứ giờ
nào trong đêm hay vào sáng sớm, đều được
hướng dẫn một cách vồn vả chu
đáo của giáo dân địa phương cũng như
của các vị Linh Mục. Đó là một trải nghiệm
đẹp, có ấn tượng sâu xa nhất nơi mỗi
khách hành hương. Nhưng một điều đặc
biệt nhất là các cuộc hành hương đã tập
trung thành một biển người vĩ đại tại
Fatima như chưa từng xảy ra bao giờ, đã gây
cho mọi khách hành hương một sư ý thức mạnh
mẽ và rõ rệt về đức tin Công Giáo của mình,
và qua đó củng cố thêm cho sự tự tin của mỗi
người tín hữu khi họ lên đường trở
về nhà.
Chính sự hồ hởi tham dự
vào các cuộc hành hương của mọi tầng lớp
đông đảo dân chúng, cũng như tinh thần phấn
khởi và niềm vui tinh thần dạt dào nơi các khách
hành hương, đã làm cho các kẻ vô thần chống
đối biến cố Fatima cảm thấy thất
ngượng ngùng và xấu hổ. Hơn nữa, những
người có tư tưởng tự do tiến bộ,
vô thần và bè Tam điểm ấy luôn xác tín một cách chủ
quan rằng, một đàng không thể có chuyện can thiệp
huyền nhiệm của Thiên Chúa trong những gì đã xảy
ra, và theo nguyên tắc thì tất cả mọi hiện
tượng xảy ra trên trái đất này đều có thể
giải thích một cách khoa học được, và một
đàng khác, những gì đã xảy ra ở Fatima chỉ là
trò bịp bợm của các Giáo Sĩ bày ra để lừa
dối dân đen, nên bọn họ đã sử dụng bạo
động để dẹp bỏ. Họ cũng cho rằng
tất cả người Công Giáo đều không phải
là những người có tư tưởng tự do tiến
bộ.
Nhưng cuối cùng những
bạo hành của những kẻ thù của Sứ điệp
Fatima
đã quay lại làm hại chính họ. Sự thù ghét của
họ chống lại Giáo Hội Công Giáo còn mạnh mẽ
hơn cả lòng trung thành của họ đối với
các nguyên tắc tự do mà họ đã đề xướng
lên như là các tín điều bất khả ngộ. Thái
độ đó được bày tỏ rõ rệt vào ngày
13.8.1917, khi ông quận trưởng ra lệnh cho tách biệt
ba trẻ – cả ba trẻ vào lúc ấy còn dưới 10 tuổi
– ra khỏi cha mẹ các em và cho giam vào nhà tù, cốt để
dọa nạt, làm mất tinh thần và bắt ép các em phải
khai ra các bí mật và hứa không đi tới đồi
Cova da Iria nữa(16). Người
ta dọa sẽ nướng sống các vào một cái chảo
dầu đang sôi. Sơ Lucia kể: „Thế là họ
đã gọi Gia-xin-ta và cho em hay rằng em là đứa
đầu tiên sẽ bị thiêu sống (…). Tiếp đến,
họ cho gọi Phan-xi-cô và nói dối em là Gia-xin-ta đã bị
thiêu sống rồi, và em cũng sẽ chịu chung một số phận tương tự,
nếu như em không nói ra các bí mật. Sau cùng đến
lượt con (Lucia), họ củng đã nói với con là
em họ con (Gia-xin-ta) đã bị thiêu sống và con cũng
chịu cùng số phận ấy.“
Mặc dù bị đe dọa khủng
khiếp như thế, cả ba trẻ đều can đảm
giữ vững lập trường một cách phi thường
cho đến cùng, chứ các em không hề tỏ ra sợ sệt
chút nào cả. Phan-xi-cô còn nói: „Nếu họ thực sự
giết chết chúng con, thì chúng con càng mau được về
Thiên đàng.“ Em còn cầu
nguyện cho Gia-xin-ta đừng sợ hãi. Chính sự
can đảm của ba trẻ vốn được tác
động và củng cố bởi sức mạnh siêu
nhiên, đã khiến cho mưu mô và kế hoạch xảo
quyệt của vị quận trưởng vô thần hoàn
toàn thất bại.
Một hành động bạo lực
khác nữa của những kẻ thù là họ đặt
mìn làm nổ tung mái Nhà Nguyện nơi Đưc Mẹ hiện
ra, cốt gây hoang mang cho các khách hành hương, nhất là
họ hy vọng sẽ làm cho mọi người coi thường
và mất tín nhiệm đối với Sứ điệp
Fatima. Nhưng chính vì hành động phạm thượng
này đối với Mẹ Thiên Chúa, người ta đã tổ
chức vào ngày 13.5.1922 một cuộc hành hương vĩ
đại với khoảng 40 đến 50.000 người
tham dự, cốt để đền bù phạt tạ tại
Fatima, và đã gây một sự quan tâm đặc biệt
trên thế giới.
Nhưng các nhà chức trách địa
phương lúc bấy giờ vẫn chưa chịu bó tay thua cuộc. Họ đã dựa vào luật
tách biệt giữa Nhà nước và Giáo Hội (nghĩa là
không được tổ chức các nghi lễ tôn giáo cách
công khai bên ngoài Nhà thờ), để cấm tất cả
những cuộc tập trung đông người như tại
Fatima, và họ cho các đoàn vệ quốc quân diễn hành
tại hiện trường và ngăn chặn tất cả
mọi con đường dẫn tới đồi Cova da
Iria. Nhưng rồi trước sự phản
ứng, tuy bất bạo động nhưng đầy
cương quyết và kiên trì, của đông đảo quần
chúng, cả chiến thuật ma quái này của các nhà chức
trách vô thần cũng phải hứng chịu sự thất
bại hoàn toàn.
Thật vậy, khi thấy các ngã
đường dẫn tới đồi Cova da Iria bị
lính chặn hết, các phái đoàn hành hương kéo nhau
đi bộ qua các cánh đồng hay các đồi núi để
tới cho bằng được chỗ Đức Mẹ
hiện ra. Điều đó đã làm lệnh
phong tỏa các ngã đường ở Fatima của các nhà chức
trách thành vô hiệu hóa. Các vệ quốc quân đành bó
tay, không thể làm gì khác được.
Khi nhận thấy các nhà chức
trách địa phương hoàn bất lực trong việc
ngăn chặn sự tập trung quá đông của hàng vạn
khách hành hương từ khắp nơi kéo về Fatima,
Thủ tướng Bồ Đào Nha lúc bấy giờ
cũng đâm ra lo sợ và không dám ra lệnh cấm các cuộc
hành hương của dân chúng. Một điểm đặc
biệt là dù tấp nập và đông đảo như thế,
tất cả các phái đoàn khách hành hương đều
có ý thức kỷ luật cao và tuyệt đối giữ
trật tự trong việc di chuyển – kẻ tới
người ra về – cũng như khi cử hành các lễ
nghi Phụng Vụ, như lần hạt Mân Côi, hát các bài
Thánh ca, cầu nguyện, v.v… đều diễn ra trong hài
hòa và trât tự.
Do đó, các nhóm cảnh sát và quân
đội được gửi đến Fatima
để ngăn cản khách hành hương hay để
giữ trật tự, đã trở nên dư thừa, không
cần thiết. Bởi vì, họ không thể cầm gậy
đánh hay chĩa súng bắn đám dân chúng đang cầu
nguyện trong ôn hòa và trật tự như thế, nếu
không nói là nhiều người trong họ cũng đã quỳ
gối cầu nguyện và hát kinh cùng với các khách hành
hương. Bởi vì, đa số họ không phải là những
người thuộc ý thức hệ tư tưởng tự
do và vô thần, nhưng là những người phát xuất
từ quần chúng. Đó cũng là lý do cắt nghĩa hiện
tượng tại sao hằng ngày tất cả các chuyến
xe quân đội, trên đường trực chỉ hướng
Fatima để làm nhiệm vụ được giao phó,
đều đã mời các khách hành hương mà họ gặp
dọc đường lên xe và chở tới Fatima. Thái
độ cư xử tốt với các khách hành hương
như thế của đoàn vệ quốc quân, đã khiến
các nhà chức trách vô thần hay thuộc hội Tam điểm
vô cùng tức giận, đến nỗi họ đã
đem vụ việc ra bàn cãi ở trong quốc hội và
đã nêu câu hỏi đầy đê tiện nhỏ nhoi là
ai sẽ trả tiền xăng cho các chuyến xe chở
khách hành hương như thế?
Tiếp đến, thái
độ của một thầy giáo cũng bị tố
cao và bêu xấu, khi ông này nhân dịp có cuộc hành
hương tới Fatima đã cho học sinh nghỉ học và đóng cửa
nhà trường. Khi bị tra vấn tại sao, ông thầy
giáo đã trả lời là vì các học sinh của ông phải
đi hành hương chung với cha mẹ
các em, nên không thể đến nhà trường được.
Điều đó cũng muốn nói lên rằng
ảnh hưởng của biến cố Đức Mẹ
hiện ra ở Fatima đã thực sự ăn sâu vào ý thức của
đại đa số dân chúng, bất kể địa vị,
giai cấp hay trình độ văn hóa.
Cũng vì thế,
người Công Giáo lúc bấy giờ đã bình thản coi
sự hiện diện của các vệ quốc quân ở Fatima như một
điều bình thường, chứ không có gì là khó chịu
hay vướng mắc cả. Chẳng
những thế, họ còn vui đùa gọi các vê quốc
quân là đoàn lính danh dự của Fatima. Tình hình diễn biến này đã khiến chính phủ
Bồ Đào Nha lúc bấy giờ trở nên lo sợ.
Họ sợ người Công Giáo sẽ mỗi ngày một
trở nên ý thức hơn và dựa vào các quyền lợi
của họ đã được pháp luật bảo
đảm, họ sẽ đòi hỏi Nhà nước phải
tôn trọng quyền tự do của họ. Hơn nữa,
các báo chí cũng càng ngày càng đứng về phía người
Công Giáo (17) và thường công khai đề cao các cuộc
hành hương của đủ mọi thành phần và tuổi
tác, xuất phát từ dân chúng, kể cá các thành phần hàn
lâm khoa bảng (chứ không còn coi những người Công
Giáo chỉ là những thành phần ngu dân). Do đó, các đối
thủ của Sứ điệp Fatima mỗi
ngày mỗi trở nên tự ti mặc cảm, thủ thế,
thụ động và bảo vệ ý thức hệ của
mình một cách thiếu xác tín. Nếu xét theo
phương diện tâm lý, thì bạo động thường
là dấu hiệu của sự sợ hãi, của sự thiếu
tự tín và của sự thiếu các luận cứ hợp
lý. Nhiệm vụ chính của đoàn vệ quốc quân là
giữ gìn an ninh trật tự (18), nhưng trước sự
ý thức kỷ luật cao độ của người
Công Giáo, nhiệm vụ của họ đã trở thành
dư thừa và buồn cười.
3. Sứ điệp Fatima
đã tự vượt qua được mọi thách
đố
Dĩ nhiên, khi nói „Sứ điệp
Fatima đã tự vượt qua được mọi
thách đố“, thì không hề có ý phủ nhận hay
đánh giá thấp lòng can trường và đức tin mạnh
mẽ của các tín hữu Công Giáo Bồ Đào Nha trước
các hành động đe dọa, ngăn cấm và khiêu khích
của các nhà chức trách vô thần thời ấy, hay các
chiến thuật cũng như phương thức hành xử
rất khôn ngoan, thận trọng và cương quyết của
Đức Giám Mục D. José Alves Correia da Silva và của tiến
sĩ Dr. Formigáos, chủ tịch Ủy ban Điều tra biến
cố Fatima hay của bất kỳ ai khác, nhưng chỉ
muốn nói rằng biến cố Fatima đã vượt
qua được mọi thách đố cực kỳ khó
khăn và đã dành được chiến thắng như
chúng ta chứng kiến ngày nay, thì chính yếu và trên hết
là nhờ vào sự tác động của sức mạnh
siêu nhiên từ Trời cao.
Người ta có thể nói rằng
vào năm 1917, trước tiên những người có
tư tưởng tự do tiến bộ, những người
vô thần và các thành viên hội Tam điểm hoàn toàn tự
tín và hung hăng, trong khi đó các tín hữu Công Giáo lại
rụt rè và nhát đảm. Nhưng rồi trong mấy
năm tiếp sau đó, tình thế hoàn toàn xoay đổi
ngược lại, và khởi đầu là cuộc hành
hương vĩ đại vào ngày 13.5.1922, để công
khai tôn vương Đức Trinh Nữ Maria và để
đền bù phạt tạ tội phạm thánh của những
kẻ thù vô thần, đã dám cho mình nổ tung mái Nhà Nguyện
ở chỗ Đức Mẹ hiện ra. Từ đó,
người Công Giáo càng trở nên can đảm và tự
tín hơn. Họ đã đòi hỏi chính quyền
phải tôn trọng các quyền lợi chính đáng của
họ đã được ghi rõ trong hiến pháp Nhà nước
Bồ Đào Nha, và đồng thời họ cũng đã
đẩy các kẻ thù đầy quyền thế của
họ vào lúc bấy giờ phải rơi vào thế bị
động.
Ở đây, có lẽ người ta
sẽ tự hỏi: Ai đã có thể làm xoay đổi
được cục diện như thế?
Các kẻ thù của Giáo Hội đã
quả quyết đó là do ảnh hưởng ngu muội của các Giáo Sĩ và do sự sắp
đặt gian xảo của mấy ông Thầy Dòng Tên.
Nhưng như đã nói trên, vào lúc bấy giờ Đức
Hồng Y Thương Phụ Lissabon đang bị lưu
đày, và miền Leiria-Fatima mãi sau này mới được
nâng lên hàng Giáo phận, chứ vào lúc ấy chưa có ai lãnh
đạo cả; còn hàng Giáo Sĩ thì hầu như tất
cả đều tỏ ra nghi ngờ và ít quan tâm tới về
những gì liên quan đến biến cố Đức Mẹ
hiện ra tại Fatima. Nói chung là vào thời
ấy, nội bộ Giáo Hội Bồ Đào Nha rất bệ
rạc và thiếu tổ chức.
Nhưng khởi đầu sự
thay đổi tình hình và cục diện một cách ngoạn
mục như thế là chính sự ảnh hưởng
thiêng liêng, sâu sắc và mạnh mẽ trên các tâm hồn của
sáu lần Đức Mẹ hiện ra với ba trẻ, mà
đỉnh cao của những lần hiện ra ấy là lần
hiện ra cuối cùng vào ngày 13.10.1917 với phép lạ trọng
đại „Mặt trời quay“. Vì đã được
báo trước là sẽ có một dấu lạ phi thường
xảy ra, nên ngày ấy đã thu hút được một
đám quần chúng đông đảo vào khoảng 50 đến
70.000 người, và phép lạ „Mặt trời quay“ đã chứng nhận cho lời báo trước
của ba trẻ và qua đó cũng chứng nhận sự
xác thực của biến cố hiện ra(19). Và trong
những năm tháng tiếp sau đó và mãi cho tới ngày
nay, người ta vẫn tiếp tục cảm nghiệm
được một cách cụ thể sự can thiệp
của Trời cao qua các phép lạ lành bệnh ngoại
thường tại Fatima.
Sự hiện diện huyền nhiệm
của Trời cao còn được tỏ bày ra một
cách rõ ràng qua:
·
Sự can đảm phi thường của ba trẻ
chưa quá mười tuổi đời, khi các em bị bắt
giam vào tù và phải trải qua những cuộc khảo hạch
đầy mưu mô lừa lọc của nhà cầm quyền
vào ngày 13.8.1917.
·
Và cả sự cương quyết và sự xác tín sâu xa của
các khách hành hương. Họ đã luôn
bình tỉnh thản nhiên, chứ không một chút sợ hãi
hay lùi bước trước đoàn vệ quốc quân
luôn có thái độ khiêu khích và hăm dọa.
Vâng, quyền lực trần thế
không chỉ đã tỏ ra bất lực hoàn toàn trước
sức mạnh vô biên của Trời cao, mà còn cộng tác
tích cực và trực tiếp vào biến cố Fatima,
như việc quân đội đã lấy xe đón rước
các khách hành hương, mà chúng ta đã nói đến ở
trên. Bởi vậy, sau sự kiện quả mìn nổ trên
mái Nhà Nguyện Fatima, tờ báo A Epoca đã mỉa mai
gọi Bồ Đào Nha là „đất nước của
bom mìn“. Còn trong Thư Cô-rin-thô (1Cr 1, 26-31 của ngài, thánh
Phaolô đã trình bày rõ ràng các tiêu chuẩn chọn lựa của
Thiên Chúa như chúng ta đã trích ở trên, đó là: sự yếu
đuối, khờ dại và thấp kém. Vì thế, trong
Thư Chung của ngài đề cập đến việc
công nhận sự xác thực của biến cố Đức
Mẹ hiện ra, Đức Giám Mục Giáo phận
Leiria-Fatima đã trích dẫn đoạn Kinh Thánh trên để
bịt miệng những kẻ thù Giáo Hội, luôn kiêu
căng ngạo mạn khinh bỉ tất cả các tín hữu
Công Giáo và ba trẻ thị kiến, và coi họ là những
thành phần xã hội thiếu văn hóa, dốt nát và thấp
hèn (ba của Lucia là một người nghiện rượu)(20).
Nhưng sự can cương, ý chí sắt đá và sự
khôn ngoan tột bậc của những người
đơn sơ bé nhỏ này đã khiến cho những kẻ
tự mãn kia phải suy nghĩ và đã hoán cải
được nhiều người trong họ quay trở
về với đức tin Công Giáo. Nói tắt, nguyên tắc
tuyển chọn muôn thuở của Thiên Chúa lại một
lần nữa được thể hiện rõ ràng tại
Fatima, như xưa Người đã làm khi chọn lựa
các Tông Đồ vậy.
Chính sự ngây thơ trong trắng của
ba trẻ Fatima qua những câu trả lời thành thực,
nhưng hoàn toàn nhất quán của các em – chứ không phải
bằng những lời hoa mỹ bóng bẩy – cho những
câu tra hỏi dò xét tinh vi của các nhà cầm quyền dân sự
hay của các vị Linh Mục, chứ không hề có một
chút mâu thuẩn nào, là cả một bằng chứng hùng hồn
nói lên sự khả tín đầy thuyết phục của
biến cố Fatima. Thêm vào đó, tuy tuổi đời các
em chưa quá 10 tuổi, nhưng tất cả ba trẻ –
đặc biệt là Phan-xi-cô và Gia-xin-ta – đều vui vẻ
và sẵn sàng chịu mọi đau khổ, mọi cực
hình và mọi bệnh tật một cách anh hùng và phù hợp
tinh thần Tin Mừng, để đền bù cho các kẻ
có tội, là những bằng chứng hùng hồn nhất,
góp phần biện minh cho sự xác thực của biến
cố Fatima.
Tờ báo Mensageiro (D 1) đã
đưa tin đầy đủ về cuộc hành
hương vĩ đại chưa từng có vào ngày
13.5.1923, và gọi đó là một imposante „manifestacáo de fe“,
một cuộc biểu dương đức tin hết sức
ấn tượng. Tác giả bài báo ước
chừng có khoảng từ 80 đến 100.000 người
tham dự. Và tuy đoàn vệ quốc quân đã
được trang bị đầy đủ súng ống
và các dụng cụ cho sự đàn áp, nhưng sau đó họ
đã cảm thấy bất lực trước đám
đông, nên đành phải rút lui.
Các phái đoàn hành hương đều
mang theo các cờ quạt có thêu hình ảnh
Chúa, Đức Mẹ và các Thánh rất uy nghi chỉnh tề.
Sau bài giảng, Thánh Lễ đã được
cử hành trọng thể và sốt sắng cho khách hành
hưong. Và dĩ nhiên, tất cả mọi
người có mặt đều đã lần hạt Mân
Côi.
Vì thế, để ám chỉ
đoàn vệ quốc quân với súng ống và vũ khí
đầy mình, đã được phái tới Fatima
để nhằm đe dọa và ngăn chặn các cuộc
hành hương, các báo chí đã nhận định: „Ở
Fatima không cần súng ống
đạn dược. Vũ khí mà những người
đi tới đó mang theo, là chuỗi
tràng hạt Mân Côi và tượng Thánh Giá“. Các
khách hành hương cùng nhau đứng yên lặng hay cầu
nguyện; và ngay cả sau trưa người ta vẫn tiếp
tục cầu nguyện. Trên đường về
nhà, mọi người đều trầm trồ: „Chúng
tôi ra về trong sự cảm phục lạ lùng và ngạc
nhiên, vì làm sao một đám quần chúng quá đông đảo
đến cả trăm ngàn người như thế, lại
có thể tự động tập trung về đây, chứ
không có ai đứng ra tổ chức và mời gọi cả;
và tất cả đều hoàn toàn diễn ra trong trật tự,
nếu như họ đã không được một sức
mạnh huyền bí từ Trời cao mời gọi.“
Nhân dịp này, tờ báo A Epoca
(x. Documentacáo IV, 3, DOC 492, 493) đã phê bình thái độ của
chính phủ Bồ Đào Nha trong vụ việc nhà thờ
Santa Joana (21) và việc cấm cản các cuộc hành
hương tại Fatima, nhất là tờ báo đã phê bình sự
thụ động quá lâu của người Công Giáo trước
những thái độ và hành động bài Giáo Sĩ của
những kẻ thù Giáo Hội và sự đày ải Đức
Hồng Y Thương Phụ Lissabon, chứ không có bất
cứ sự chống đối nào. Sự
phê bình thẳng thắn này đã có ảnh hưởng rộng
rãi trong quần chúng và mang lại những tác động
tích cực cho biến cố Fatima. Chính tờ báo này cũng đã gọi lệnh
cấm các cuộc hành hương và tụ họp cầu
nguyện của dân chúng tại Fatima là bất hợp pháp,
và coi cuộc rước kiệu ngày 13.10.1924 là một cuộc
biểu dương đức tin một cách hoành tráng và có ấn
tương mạnh mẽ.
Tất cả các vệ quốc quân
được phái tới Fatima cũng nhận thức
được rõ ràng là họ không thể dùng bạo lực
để đàn áp các tín hữu chỉ biết cầu nguyện,
vì họ cảm thấy sự biểu dương đức
tin của các tín hữu là cả một „sức mạnh
tuy hoàn toàn hài hòa, nhưng bất khả chống cự lại“ (forca pacifica, mas irresistivel). Tờ báo này (22)
đã đưa ra những nhận xét về cuộc hành
hương: Trước hết, nhà cầm quyền loan báo
là quân đội sẽ thực thi lệnh cấm tụ họp
ở Fatima một cách nghiêm ngặt,
nhưng rồi mọi sự lại xảy ra bình thường
như không có lệnh cấm nào cả. Nhưng đặc
biệt nhất là sự tuyên xưng đức tin một
cách toàn bộ và thống nhất nơi hànhg trăm ngàn
khách hành hương cũng như sự suy niệm trong
thinh lặng và trật tự tuyệt đối của một
đám quần chúng đông đảo như thế đã
gây nên một ấn tượng sâu xa nơi tác giả bài báo.
Một khách hành hương đã kể lại cảm nhận
của mình rằng „sự hồi sinh đức tin Công
Giáo của dân tộc Bồ đào Nha“ đã thực sự
xảy ra. Và tác giả bài báo đã kết luận
bằng lời nhận xét của ông Giovanni Papini. „Thế
giới ngày nay mong ước hòa bình hơn là sự tự do
và một nền hòa bình bền vững chỉ tìm gặp
được nơi ách của Đức Kitô“.
Bộ tài liệu „Documentacáo Critica“ đã nói đến „cuộc chiến chống
lại người Công Giáo“. Nhưng trong cuộc chiến
ấy, người Công Giáo đã tranh đấu mỗi
ngày một mạnh mẽ và hăng hái hơn cho các quyền
lợi chính đáng và hợp pháp của họ, mặc dầu
họ tranh đấu với chính quyền vô thần Bồ
Đào Nha thời ấy chỉ bằng sự cầu nguyện
và hoàn toàn bất bạo động.
Có lẽ thái độ hài hòa này của
các tín hữu tại Fatima lại nhắc người Công
Giáo Việt Nam chúng ta nhớ đến các cuộc tranh
đấu đòi công lý của bà con giáo dân Việt Nam ở
Hà Nội, Đồng Chiêm, Thái Hà, Ninh Bình, Tam tòa, Loan Lý, Cồn
Dầu, v.v…, tất cả cũng đều diễn ra
trong hòa bình trật tự và chỉ cầm vũ khí duy nhất
trong tay là tràng chuỗi Mân Côi và tượng Thánh Giá.
Nhưng chỉ một điều
hoàn toàn khác biệt giữa hai cuộc tranh đấu cho
công lý ấy, của các tín hữu Công Giáo ở Fatima xưa
kia và của các tín hữu Công Giáo ở Việt Nam ngày nay,
là ở chỗ: Chính quyền cộng sản vô thần Bồ
Đào Nha xưa kia đã tự rút lui, chứ không nhẫn
tâm dùng bạo lực để đàn áp và xua đuổi
các tín hữu ngoan đạo đang cầu nguyện tại
Fatima, còn chính quyền cộng sản vô thần ở các
địa phương nói trên tại Việt Nam lại
đã sử dụng hơi cay, dùi cui điện, báng súng và
chó dữ nghiệp vụ để đàn áp vá đánh
đập các tín hữu Công Giáo tay không một cách cực kỳ
vô nhân đạo, đến nỗi nhiều người
đã bị ngất xỉu tại chỗ, phải chở
vào phòng cấp cứu tại các bệnh việc, để
được điều trị hàng bao nhiêu thánh trời
và có người đã bị tê liệt suốt đời!
Còn sự xác tín cho rằng sự kiện
„đức tin được hồi sinh“ trong dân tộc
Bồ Đào Nha và sự thất bại thảm
thương của những kẻ thù vô thần, chắc
chắn đã phát xuất từ sức mạnh siêu nhiên của
biến cố Đức Mẹ hiện ra. Vâng,
người Công Giáo Bồ Đào Nha đã từ từ nhận
thức được sợi dây liên đới huynh đệ
đang nối kết và thắt chặt tất cả họ
lại với nhau mỗi ngày một hơn và nhờ thế
họ cũng trở nên tự tín hơn.
Sau cùng, qua các giờ cầu nguyện,
lần hạt Mân Côi và hát các bài Thánh ca chung với nhau,
cũng như sự lãnh nhận sốt sắntg các Bí tích
Hòa Giải và Thánh Thể, hầu như tất cả những
người tham dự các cuộc hành hương tại
Fatima đều đã cảm nhận được tính chất
liên đới nhân loại của mình và Giáo Hội Công Giáo
quả thực là một „thế giới đại đồng“
đúng nghĩa, nhất là niềm vui thiêng liêng tràn ngập
trong tâm hồn và sự cảm nhận ấy đã củng
cố đức tin Công Giáo của họ thêm vững vàng
kiên cố hơn.
(Suy tư trong Tháng Mân Côi 2010)
_________________________
1. Nguyệt San „Kirche
heute“, số tháng 7.2010, trang 14.
2. xem Documentacáo Critica III 3, Doc. 674, 676 (FKTh 22,
trang 277.
3. xin
xem Lm Nguyễn Hữu Thy, Sứ điệp Fatima, Trung tâm Mục
Vụ CGVN Giáo phận Trier/CHLB Đức xuất bản,
Trier 2008, trang 73.
4. x.
FKTh 17,64, Documentacáo Critica II, trang 193tt.
5. x.
Documentacáo Critica II, trang 11tt.
6. như trên, trang 25.
7. như trên, trang 263-276.
8. như trên, trang
42-50.
9. x. Documentacáo IV,
trang 300.
10.
x. Documentacáo IV, 2, Doc. 305.
11.
x. Documentacáo IV, 2, Doc. 314; 361; 380; 403.
12.
x. Documentacáo III, 1, Doc. Trang 56tt.
13.
x. Documentacáo III, 1, Doc. Trang 236, 111, 151.
14.
x. Documentacáo III, Doc. 124,128, 180, 348.
15.
Luật Giáo Hội trước Công đồng Vatican II buộc
tất cả những ai muốn rước lễ phải
nhịn ăn nhịn uống 3 giờ đồng hồ
trước đó.
16.
x.Documentacáo II, trang 142; Schwester Lucia spricht über Fatima, trang 122.
17.
x. FKTh 23 (2007) 208.
18.
x. Documentacáo IV, 1, DOC 5.
19.
x. G. Solze: Und die Sonne tanzte über Fatima, Fulda 2006.
20.
x. Documentacáo IV, 3, DOC 531.
21.
Nhà Thờ Santa Joana là một ngôi Thánh đường Công
Giáo đã bị chính phủ trịch thu một cách trái phép
và đưa đấu giá các đồ thờ phượng
trong Nhà Thờ.
22.
x. cùng chỗ như trên, trang 494.
Lm Nguyễn
Hữu Thy