Google Search
Local Search
|
|
Bổ nhiệm Giám mục Giáo phận Thái Bình
|
Bổ nhiệm Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Xin mời nghe proshow "Lời Gọi Fatima" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
Xin chia sẻ cùng quí cha, thày và anh chị proshow "Danh Thánh Đức Maria" do Lm Lê Khắc Lâm thực hiện.
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
|
Chiêm Niệm Bảy Sự Thương Khó Của Đức Mẹ Maria
|
|
Thứ Sáu, Ngày 15 tháng 9-2017
|
CHIÊM NIỆM BẢY SỰ
THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC MẸ MARIA
Đỗ Trân Duy
Cuộc
đời đức Mẹ Maria là cuộc đời của
bà Mẹ có trăm nghìn đau khổ nối tiếp nhau kể
ra không hết. Tước hiệu Đức
Bà Sầu Bi (Our Lady of Sorrows) phần nào nói lên lòng
thương cảm và tôn kính của Kitô hữu đối
với Đức Bà. Lòng tôn kính này phổ
biến rộng rãi từ thế kỷ XII. Để
Kitô hữu có thể chiêm niệm sự đau khổ của
Đức Mẹ một cách cụ thể, Hội Thánh chọn
bảy sự thương khó tiêu biểu gắn liền với
lịch sử cứu độ của Đức Giêsu
để tưởng niệm.
1. Lời Tiên Tri Của Thầy Cả Simêôn
Sau khi sinh nở được 40 ngày, Đức Maria phải
làm lễ thanh tẩy và dâng con trai đầu lòng lên Thiên
Chúa theo luật Do Thái. Thánh gia hành lễ tại
đền Giêrusalem. Trong đền thờ
có lão thầy thượng phẩm Simêôn vẫn hằng cầu
nguyện xin được gặp Đấng Cứu
Độ trước khi ông lìa trần. Một đêm, Thánh Linh cho biết ông sẽ thấy
Đấng Kitô vào ngày mai. Hôm sau ông đứng
sẵn trước bàn thờ hằng giờ chờ đợi.
Ông thấy thánh gia đi tới có hào quang phủ
xung quanh. Ông nhận ra ngay con trẻ Giêsu là Đấng
Mêsia. Ông ẵm Hài Nhi và xúc động
nói: “Giờ đây tôi tớ Chúa xin được ra đi
vì mắt tôi đã thấy ơn cứu độ.” Rồi
ông nói với Đức Maria: “Hài nhi sẽ
là dấu cho người ta chống đối và là sinh mệnh
cho nhiều người ngã xuống hay chỗi dậy trong
dân Israen. Còn bà! Một lưỡi gươm
sẽ xuyên thấu hồn bà, nhờ vậy mà ý nghĩ
trong những tâm hồn khác được phơi bày.”
Tuy được Thánh Linh chỉ dẫn
nhưng phát ngôn của Simêôn chỉ là một trực giác
siêu hình, không phải là một hiểu biết, nên ông không
thể giải thích. Cả Simêôn lẫn
Đức Bà đều cảm nhận một cái gì cao cả
bao la và hàm chứa nhiều điều không thể khai triển.
Những điều này may ra có thể hiểu được
khi chúng ứng nghiệm trong thời gian. Hài Nhi
Giêsu được xác định là một đối
tượng bị khổ nạn (trong xứ Israen) và sẽ
mang lại đau khổ cho cha mẹ. Đây
là một đau khổ nội tại, như một thiên mệnh.
Có bà mẹ nào không đau lòng khi biết số phận
tương lai con mình như vậy. Nỗi khổ nạn
của Hài Nhi không thể tránh vì nó không phải
là một tai nạn nhưng là nền tảng siêu việt
phát sinh ra sự sống cho nhiều người. Cũng vậy
lưỡi gươm đâm thấu tim
đức Maria không thể bỏ, vì nó là nguồn vận
hành cho các ý nghĩ (ý thức về Thiên Chúa) của nhiều
tâm hồn được nẩy nở. Đức
Maria âm thầm chịu đựng sự đau khổ từ
phút nghe Simêôn nói. Đức Mẹ hồi
hộp không biết cái gì sẽ xảy ra trong ngày mai, nên chỉ
biết kéo dài sự thổn thức lo lắng cho đến
hết đời mình.
2. Lẩn Trốn Qua Ai Cập
Khi Đức Giêsu sinh ra, vua Hêrốt được ba
đạo sĩ cho biết có vua Do Thái mới ra đời.
Hoảng sợ bị mất ngôi, Hêrốt ra lệnh tìm giết
Hài Nhi. Sau buổi lễ
thanh tẩy nói trên được 5 ngày, thánh Giuse được
thiên sứ báo tin dữ trong giấc mộng. Nửa
đêm, thánh vội vàng thu tóm đồ đạc, lén lút
mang Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập. Gia tài
của thánh gia chỉ có 1 con lừa và ít mẩu bánh khô. Bấy
giờ trời còn trong mùa Đông giá buốt, Đức Mẹ
chỉ là cô gái yếu đuối 17 tuổi, còn Hài Nhi thì mới
sinh. Cuộc đi trốn bằng đường bộ
dài 400 dặm xuyên qua sa mạc và những
cánh rừng hoang. Họ đi ban ngày, ban đêm ngủ trên
cát sa mạc hay dưới gốc cây
trong rừng sâu. Đức Giuse lấy chiếc áo của
mình phủ lên vài cây cọc để làm lều cho Đức
Mẹ và Hài Nhi trú thân. Sau 30 ngày lạc
lõng, đói khát, và giá lạnh, thánh gia thất thểu tới
thành Hêlipôli (Thành Mặt Trời), Ai Cập. Thánh gia lưu
trú tại đó trong 7 năm trời. Cuộc sống của
kẻ di cư hết sức bơ
vơ và cùng cực. Đức Giuse làm công thợ
mộc và đức Maria đan áo để sinh sống.
Đức Giuse thường bị ông chủ
bạc đãi không trả tiền công. Nhiều lần
cả nhà phải nhịn đói, không có đến một
mẩu bánh nhỏ cho Hài Nhi ăn.
Vì Thiên Chúa truyền cho thánh Giuse đi trốn, nên Đức
Mẹ chấp nhận nỗi đau khổ với lòng
khiêm nhường vâng theo Thánh Ý. Không phải Đức Mẹ
không muốn một hoàn cảnh tốt đẹp hơn
theo bản tính tự nhiên của con người, nhưng
đức tin và đức cậy thuần khiết giúp
Đức Mẹ vượt lên trên những ước vọng
cá nhân trần thế. Vì thế Đức Mẹ
càng nhẫn nhục trong đau khổ thì lại càng chìm sâu
trong tình yêu Thiên Chúa. Nhờ đó Đức
Mẹ sống trong Thiên Chúa một cách sâu xa. Thánh Benard
nói: “Nếu không có đức khiêm nhường thì đức
Maria cũng không được Thiên Chúa chấp nhận,” bởi
vì Thiên Chúa đã phán: “Ai là kẻ được Ta đoái
nhìn, ấy là người khốn khó trong tâm hồn khiêm
nhường.” (Is 66:2).
3. Đức Mẹ Lạc Con Trong Ba Ngày
Lúc Đức Giêsu lên 12 tuổi, Thánh Gia tới đền
Giêrusalem để dự lễ Vượt Qua. Tới
nơi gia đình tách ra làm hai, vì theo tục
lệ phái nam và phái nữ có chỗ thờ tự riêng trong
đền thờ. Xong lễ hai ông bà ra về.
Bà tưởng Con đi với ông, trong khi ông
tưởng Con đi với bà. Sau một ngày
đường ông bà gặp nhau bấy giờ mới biết
không có Con Trẻ đi theo. Từ đó Đức Mẹ sầu khổ khóc
lóc não ruột không ngừng, bà nghĩ rằng có thể nhà
vua tìm ra Con Trẻ và đã bắt mang đi. Cả ngày hôm sau ông bà tìm kiếm khắp chỗ, hỏi
thăm họ hàng và những người quen nhưng không
ai biết gì. Điều đó càng khiến
ông bà sợ hãi hơn. Trong 3 ngày thất lạc con,
Đức Mẹ không ăn và không ngủ.
Đức Giuse cũng đau khổ hầu
chết. Cuối cùng ông bà thẫn thờ
trở lại đền thờ tìm dấu vết Con Trẻ.
Họ ngạc nhiên thấy Con vẫn còn ở đó
đang ngồi nghe giảng và đặt ra những câu hỏi
làm kinh ngạc người nghe.
Đức Giêsu Hài Đồng vắng mặt
trong 3 ngày. Đó là thời gian Đức
Mẹ nghiệm ra ý nghĩa sự hiện hữu của
mình. Đức Mẹ, hơn ai hết, đã
được thiên sứ Gabrien mặc khải Hài Nhi là Đấng Kitô. Vì vậy sự gần
gũi với Hài Nhi mang đầy đủ
ý nghĩa của sự sống và sức mạnh nâng đỡ
sự hiện hữu. Tuy nhiên Đức Mẹ chưa tiếp
cận được sự siêu việt Hài Nhi
là nền tảng chân lý của tôn giáo, là Logos thành nhân. Cho
nên khi Hài Nhi đi sâu vào nội dung tôn
giáo, “Con phải lo việc cho Cha,” Đức Mẹ chưa
lãnh hội được trọn vẹn. Đức Mẹ
chỉ thấy rằng mất con là mất tất cả,
vì xa lìa Con là điều bất hạnh không thể chịu
đựng nổi. Khi Hài Nhi vắng mặt,
lúc ấy không phải lúc Hài Nhi bị lạc nhưng chính
Đức Mẹ là người bơ vơ vì bị lạc
mất điểm tựa.
4. Gặp Con Vác Thập Giá
Tin Đức Giêsu bị kết án tử
hình được thánh Gioan chạy về báo cho Đức
Mẹ, lúc ấy đang tạm trú ở nhà bà Martha. Đức
Bà vội cùng thánh Gioan và bà Mađalêna theo
dấu máu rơi trên mặt đất chạy theo Đức
Giêsu. Đức Mẹ gặp Con khi Người
đang oằn lưng đi siêu vẹo vác cây gỗ nặng
trên vai, lê bước đến núi Calvariô. Đức Giêsu lúc ấy không còn nhận ra hình dạng
con người. Đầu Người
bị quấn bởi một vòng gai to, tóc rối bù quyện
với máu, áo tả tơi, từ đầu đến
chân mang đầy vết bạo hành, máu tươi còn nhỏ
giọt. Bao quanh Người là nhóm lính
mang những khí cụ xử tử như dây thừng, búa
đinh, và giáo mác. Một số khác vung roi xích sắt
vùn vụt và chửi bới ầm ĩ. Đức Giêsu dừng
lại, đầu rũ xuống ngực, Người cố
gắng lấy tay gạt máu phủ mắt để thấy
Đức Mẹ. Hai Mẹ Con đứng lặng nhìn nhau.
Không gian ngưng đọng. Một tên lính vừa cười ngạo ha hả
vừa rung chuỗi đinh trước mặt Đức
Mẹ. Đức Giêsu ngã qụy xuống, cây gỗ dộng
mạnh trên vai, đầu cây gỗ đập vòng gai
đâm sâu vào đầu Người. Đức
Mẹ chạy lại quì xuống ôm lấy Con. Bọn lính
la hét xô Đức Mẹ ra. Thánh Gioan và
bà Mađalêna dìu Đức Mẹ ra ngoài. Đức Giêsu gượng dậy cúi mặt tiếp
tục bước đi.
Đức Giêsu tự đến Giêrusalem nộp
mình để bị xử tử. Như vậy cuộc
khổ nạn của Người không phải là một
định mệnh, nhưng là một hy sinh cho tình yêu trong
ý thức tự do. Cuộc chịu nạn này
đã cứu vớt nhiều người, nhưng lại
bắt đầu từ lỗi lầm của những kẻ
hãm hại người. Sấm ngôn của
Simêon đã được giải. Về
phần Đức Mẹ, sợ hãi và đau đớn
đến cùng tận là tất cả những gì có thể
nói về Người vào lúc ấy. Nhưng cũng
như Đức Giêsu, sự hiện hữu của Đức
Mẹ không phải là để lãnh bản án
đau khổ để rồi chết. Vì nếu thế sự
hiện hữu chỉ là cuộc sống đầy bi
thương tang tóc và không có hy vọng. Sự
đau khổ của Mẹ là một đồng cảm và
chỉ có nơi những người yêu nhau. Tình yêu là
sức mạnh vô cùng mãnh liệt, vượt khỏi sự
sợ hãi đau khổ và sự chết, là căn nguồn
cho hiện hữu trường cửu của người
biết đặt hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng vô hạn
và trường cửu.
5. Đứng Dưới Chân Thập Giá
Tiếng búa đóng đinh trên tay và chân Đức Giêsu tạo
nên cơn khủng hoảng cùng cực trong tâm não Đức
Mẹ. Máu tươi từ những mũi gai trên đầu
chảy phủ đầy mặt Đức Giêsu. Để có thể nhìn Đức Mẹ, Người
phải cong môi thổi cho dòng máu chảy vào mắt lệch
qua bên. Đức Giêsu cảm
thương Đức Mẹ và Đức Mẹ
thương xót Đức Giêsu. Tim hai
Người cùng bị xé nát. Đức
Giêsu trối Đức Mẹ cho thánh Gioan vì Đức
Giuse đã qua đời. Khi Người
mở miệng nói, máu trong miệng ứa ra. Đức Giêsu quằn quại đau đớn
trên cây Thập Giá 3 tiếng đồng hồ. Một số thượng tế và biệt phái
buông lời phạm thượng và ném đất cát vào mặt
Người. Cuối cùng Người nói, “Lạy Cha
Con phó Linh Hồn Con trong tay Cha,” Người
rướn mình lên lần cuối, rồi đầu gục
vào ngực. Thân thể Người rũ
xuống, một màu tử khí lan ra bao trùm thân xác. Mắt Đức Mẹ tối xầm lại,
toàn thân lạnh toát tê cứng, Người ngã xuống và chết
lịm. Khi Đức Mẹ tỉnh dậy,
Mẹ thấy một tên lính đến đâm lưỡi
giáo vào sườn Đức Giêsu. Lưỡi giáo
xuyên thấu ngực xé rách trái tim làm hai mảnh.
Máu và nước còn sót lại trong tim vọt
ra từ lỗ đâm. Trái tim Đức
Mẹ lúc ấy cũng đau xé ra như bị lưỡi
giáo đâm vào vậy.
Nếu không có Thiên Chúa nâng đỡ, Đức
Mẹ đã tắt thở vì quá đau khổ và sợ hãi.
Đức Mẹ đã chết trong lúc vẫn
sống. Thánh Bonaventura luận rằng Thập
Giá trên núi Calvariô chính là bàn thờ, trên đó Đức Giêsu
và Đức Mẹ cùng hiến tế để tôn thờ
Thiên Chúa. Vì vậy Đức Mẹ chính
là là Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo. Xưa Ađam và Evà đã bán thế giới với
giá một trái táo. Nay Ađam mới và Mẹ đã cứu
chuộc thế giới bằng một trái tim.
Từ đây tội lỗi của nhân loại
được tha thứ. Thánh sử Gioan dẫn ra biểu
tượng quan trọng khi Đức Giêsu thiết lập
liên hệ mẹ con giữa Đức Mẹ và môn đệ
Gioan. Thánh Origen luận rằng Đức
Gioan đại diện cho các Tông Đồ, tức Hội
Thánh. Như vậy Đức Giêsu đặt giáo hội
vào tay Đức Mẹ. Đức Mẹ
là Mẹ giáo hội, nên cũng là Mẹ các giáo hữu. Sau đó thánh Rupert giải thích rằng lời nói
của Đức Giêsu đã mặc khải rằng Đức
Mẹ là Mẹ thiêng liêng của cả nhân loại.
6. Đón Chờ Hạ Xác Đức Giêsu
Vào buổi chiều, có 3 ông là Gioan, Giuse Arimathê, và Nicôđêmô
đến hạ xác Đức Giêsu. Các ông gỡ vòng dây gai
quấn ở đầu và rút những chiếc đinh
đóng ở tay và chân Đức Giêsu ra,
rồi đỡ xác Người từ từ hạ xuống.
Đức Mẹ đón lấy xác Con rồi ẵm
vào lòng. Các cơ bắp của Đức
Giêsu đã co rút cứng lại nên xác Người vẫn giữ
nguyên dạng như khi bị đóng đanh. Mắt còn mở và miệng còn há ra. Đức Mẹ vừa khóc vừa vuốt mắt
và miệng Đức Giêsu cho khép lại. Đức Mẹ
cũng muốn xếp hai tay Đức
Giêsu đặt trước ngực, nhưng Người
chỉ có thể đặt hai tay Con úp vào bụng, vì tay
Đức Giêsu đã đông cứng.
Sự nhập thế của Ngôi Lời chấm
dứt bằng tặng phẩm Người dâng lên Chúa Cha
là tình yêu và đức vâng lời cho đến mức chết.
Đức Giêsu là tượng hữu hình của
Thiên Chúa vô hình. Cuộc tử nạn của
Người trên Thập Giá là tượng hữu hình tình
yêu toàn vẹn của Thiên Chúa hiến cho loài người
(Mt 26:28; Mc 14:24; Lc 22:20; Ga 10:15; Pl 2:18). Đức Mẹ, hơn ai hết,
đã biết rõ sự sống của loài người bắt
đầu bằng cái chết của hữu thể Đức
Giêsu, nhưng điều đó không làm giảm sự
đau khổ của Đức Mẹ. Mẹ đau xót vì
Con bị chính những kẻ thọ ân bạc đãi và bỏ
rơi. Nhờ cuộc hiến tế trên Thập
Giá mà loài người được liên kết với
Thiên Chúa qua Đức Giêsu và qua Giáo Hội của Người.
Vì Đức Mẹ là nơi hoàn hảo để
Thiên Chúa siêu việt nhập thế, nên đồng thời
Đức Mẹ cũng là nơi liên kết của Giáo Hội
và nhân loại.
Cảnh tượng Đức Mẹ đón
chờ hạ xác Đức Giêsu đã gây xúc động cho
rất nhiều nghệ nhân, trong số đó có Michaelangelo.
Ông tạc bức tượng Pieta diễn tả
cảnh Đức Mẹ ẵm xác Đức Giêsu. Pieta trở thành tuyệt phẩm vô giá của nghệ
thuật nhân loại.
7. Táng Xác Đức Giêsu
Đức Mẹ lấy vải rửa sạch mọi vết
thương. Các ông Gioan, Giuse Arimathê, và Nicôđêmô mang xác
Đức Giêsu vào trong một ngôi mộ bằng đá do
ông Giuse Arimathê mua sẵn. Họ tẩm xác Đức Giêsu bằng
dầu thơm rồi lấy tấm vải
trắng bọc lại. Khi đặt xác Đức Giêsu
vào mồ, Đức Mẹ ước ao họ để
Đức Mẹ ở trong mồ với Con, nhưng các
ông Gioan, Giuse Arimathê, và Nicôđêmô dìu Đức Mẹ ra
ngoài. Họ im lặng vần một phiến
đa to che cửa vào nhà mồ. Sau đó họ chia tay nhau. Tông đồ Gioan
đưa Đức Mẹ về nhà mình.
Nếu thánh Giuse còn sống, hay nếu đức Maria còn
vài người được thánh kinh viết là “anh chị
em của Đức Giêsu,” như một số người
cố tình hiểu như vậy, chắc chắn đã
không có cảnh Đức Mẹ đi theo thánh Gioan. “Từ đấy tông đồ [Gioan] đưa
Bà về nhà mình” (Ga 19:27), Thánh Kinh không cho biết
họ ở Giêrusalem hay ở một địa
phương nào đó.
Thánh Bridge cho biết Đức Mẹ nói với bà, “Con thấy
chăng, những đau khổ Con Ta chịu là vì con.” Sự liên hệ giữa nhân loại và Thiên Chúa là
một huyền nhiệm của tình yêu. Thiên Chúa chết
vì yêu nhân loại là một trong những huyền nhiệm
mà chúng vẫn chưa có thể hiểu hết được
sự bao la của ân sủng này. Tuy Đức Mẹ không nhắc đến
Người, nhưng chúng ta đều biết Đức
Mẹ đã thông phần đau khổ với Chúa Kitô.
Vì vậy chúng ta cũng có thể nói: Đức Mẹ
đã chịu đau khổ là vì chúng ta.” Chính vì vậy mà
vào thế kỷ IX một số thần học gia đã
khởi xướng chủ đề: Đức Mẹ là
Đấng Đồng Công Cứu Chuộc (Coredemtrix)
Hội Thánh thành lập hai thánh lễ kính Đức Bà
Đau Khổ. Cả hai lễ đều bắt nguồn
từ điều luật 11 của công đồng Côlôn
(Cologne, năm 1423). Điều luật này quy
định thành lập lễ kính Đức Bà Đau Khổ.
Ý niệm khởi đầu chỉ hướng về mối
đau khổ tổng thể, cụ thể hơn là tôn
kính Đức Mẹ đau khổ đứng dưới
chân Thập Tự Giá. Thánh lễ
được cử hành vào ngày thứ Sáu của tuần
thứ 3 sau lễ Phục Sinh. Năm
1482, bảy sự thương khó của Đức Mẹ
mới được khai triển và truyền giảng ở
Âu Châu. Năm 1725 đức Benêdíc XIV chuyển
lễ Đức Bà Đau Khổ qua ngày thứ Sáu trong tuần
Thương Khó, trước lễ Lá. Đó là lễ
thứ I. Năm 1912 Giáo Hoàng Pio X quyết định toàn thể
giáo hội cử lễ tưởng niệm một lần
nữa vào ngày 15 tháng 9 hằng năm, sau lễ kính Thánh Giá.
Đó là lễ thứ II. Cả hai thánh lễ
đều dùng bài thơ “Stabat Mater” (Mẹ Sầu Bi đứng
dưới chân Thập Giá) của Giacopone da Todi (1360), tu
sĩ dòng Phanxicô, làm thánh ca cho buổi lễ
|
|
Tin/Bài mới
Tin/Bài khác
|
|