THÁNH AUGUSTIN, CHỦ CHĂN VÀ TIẾN SĨ
Thánh Augustin được kể vào thời hoàng kim của các Giáo Phụ, dù ngài đến sau và rất khác. Năm 395, khi ngài trở thành Giám Mục, trong 35 năm, thì tất cả các Giáo Phụ miền Cappadoce đã khuất bóng ; Théodose, vị hoàng đế cuối cùng của nền thống nhất đã băng hà, và hai năm sau thánh Ambroise cũng theo chân. Ðức Giám Mục thành Milan đã đón nhận vị giáo sư xuất sắc, lúc bấy giờ đang vướng vào thuyết Maniché, với tình "phụ tử và lòng nhân từ của một vị Giám Mục", thánh nhân đã giảng dạy và Rửa tội cho ngài. Khi thánh Ambroise mất, Augustin chỉ mới bắt đầu soạn cuốn "Tự thuật", hầu như tất cả công trình sáng tác của ngài vẫn còn ở phía trước. Trong số các Giáo Phụ lớn, chỉ còn mình thánh Jérome, với "tuổi già sắp chết" của mình, cùng đi suốt 25 năm với vị Giám Mục Hippone mà ngài gọi rất đúng là "chàng trai trẻ". Dù sao vị Giám Mục Phi Châu này rất khác với các Giám Mục Hylạp và những vị Latinh sống nhờ vào di sản của các ngài. Augustin hầu như là người tự đào tạo chính mình. Qua sự tiếp xúc với triết học ngoại giáo và dựa trên nền tảng truyền thống Latinh, đồng thời nhờ trí tuệ và một đời sống tinh thần phong phú, ngài đã xây dựng nên một nền thần học của riêng mình, một nền thần học phong phú nhất mà Tây phương chưa từng biết đến.
I. CUỘC TRỞ LẠI (386) VÀ CUỐN "TỰ THUẬT" (397)
CON ÐƯỜNG ÐI ÐẾN MỘT NIỀM TIN MÃNH LIỆT.
Augustin sinh ngày 13 tháng 11 năm 354 tại Thagaste xứ Numidie, nay là Souk-Ahras, Algérie. Monique mẹ ngài, một Kitô hữu, và cha ngài, một người ngoại giáo mãi cho tới trước ngày chết, làm thành một gia đình tiểu trưởng giả : ít tài sản nhưng nhiều tham vọng đối với con cái. Chàng thanh niên theo học các lớp tu từ tại Madaure, một trung tâm trí thức có tiếng, nhưng vì thiếu tiền, việc học bị chậm lại và không kéo dài được. Ngài chỉ biết chút ít tiếng Hylạp, nhưng cũng chẳng đào sâu thêm. Triết học của ngài là triết học của một người tự học. Năm 18 tuổi, ngài trở thành cha của Adéodat và ngài đã trung thành với người bạn gái suốt 15 năm. Trong cuộc đời có phần phóng túng này, ngài bỏ mặc cho đức tin leo lét, nhưng vẫn giữ tên Chúa Kitô nơi đáy lòng mình. Một tác phẩm đời, mà nay đã mất, là cuốn Hortensius của Cicéron, nhắc lại cho ngài "sự bất tử của đức khôn ngoan" và đánh thức trong ngài niềm khắc khoải về Thiên Chúa : "Con đã bắt đầu chỗi dậy để trở lại với Ngài". Augustin đã 19 tuổi và đã bắt đầu dạy tu từ học. Tham vọng đưa ngài tới Thagaste, đến Carthage trong 9 năm, đến Roma và cuối cùng vào năm 384 đến Milan, ở đó ngài còn được viên thị trưởng nổi tiếng là Symaque chọn làm nhà diễn thuyết chính thức của triều đình. Trong suốt quãng thời gian này, ngài bị thuyết Maniché lôi cuốn. Thế nhưng ngài dần dần cảm thấy dè dặt trước chủ trương duy vật của hệ thống và sự an toàn tuyệt đối của niềm tin mà chủ thuyết này muốn khẳng định, và rồi, cuộc gặp gỡ với Fauste, một Giám Mục phái Maniché ở Milève và là nhà thông thái của giáo phái, tuy không đi đến sự cắt đứt hoàn toàn nhưng cũng làm cho ngài thêm ngờ vực. Tại Milan, ngài theo dõi các bài giảng thuyết của thánh Ambroise, người đã làm cho ngài "say mê bằng sự dịu ngọt trong các điễn từ của người" và bằng khoa chú giải thiêng liêng các sách Cựu Ước.
Sau cuộc khủng hoảng do chủ thuyết hoài nghi (scepticisme) ngài còn khám phá ra tính thiêng liêng của Thiên Chúa và luôn cảm thấy trong đáy sâu tâm hồn mình "niềm tin vào Ðức Giêsu Kitô đã bén rễ vững chắc". Thế rồi, mẹ ngài, các bạn Alypius, Nébridius và chắc là cả Romanianus giàu có, đến với ngài. Tuy nhiên, chúng ta đừng vội tưởng đấy là tấm phông đẹp đẽ dựng nên để chuẩn bị cho một biến cố soi sáng, giác ngộ bất ngờ. Ðể dễ bề thăng tiến hơn trên con đường sự nghiệp, và với sự trợ lực của bà Monique, ngài đã bỏ người mẹ của Adéodat và đính ước với một cô gái rất trẻ tại nơi ngài ở, rồi trong khi chờ đợi nàng tới tuổi kết hôn, ngài lại kiếm một phụ nữ khác . Nhưng, sau một thời gian say mê phái khắc kỷ, ngài khám phá ra tác phẩm Ennéades của Plotin do Marius Victorinus dịch, tác phẩm này đã vén mở cho ngài một thứ thần học về Ngôi Lời cùng với tính chất thuần túy tiêu cực của sự dữ, và về thế giới bên kia, là những điều mà các dữ kiện của mạc khải Kitô giáo sẽ bổ túc và thăng hoa. Tư tưởng của ngài thực sự bị lay động. Nhưng vì yếu đuối, ngài vẫn còn cưỡng lại sự lay động đó. Cuối cùng, ngài đọc các thư thánh Phaolô, những bức thư công bố về Ngôi Lời Nhập Thể, về Ơn Cứu Ðộ như là Hồng Ân của Thiên Chúa và về sự khiêm hạ. Ngài còn gặp được cuốn sách nổi tiếng : "Hạnh thánh Antoine". Các biến cố xảy ra làm tăng thêm tác động của những gì ngài đọc : những cuộc trở lại, như cuộc trở lại của nhà tu từ nổi tiếng Marius Victorius, vốn là người theo thuyết Tân-Platon. Ngài bị bao vây tứ phía. Cuối cùng, vào tháng 8 năm 836 trong khu vườn nhà, một giọng nói cất lên : "Hãy cầm lấy, hãy đọc, hãy cầm lấy, hãy đọc". Ngài mở thư thánh Phaolô (Rm 13, 13) và "Tất cả những bóng tối nghi nan đã tan biến" : "Ngài đã quay con về phía Ngài, đến nỗi con không còn tìm kiếm vợ, cũng chẳng tìm bất cứ điều gì người ta hy vọng ở cõi đời này : con đứng thẳng trên qui luật đức tin".
Ngài từ bỏ sự nghiệp, cùng với những người thân lui về trong gia trang của một người bạn tại Cassiciacum, ở đó ngài bàn bạc, suy nghĩ và viết lách. Ngài chuẩn bị cho phép Thánh Tẩy mà ngài sẽ lãnh nhận từ tay thánh Ambroise trong đêm canh thức Phục Sinh năm 387 (24 - 25.4). ngài sắp lên đường về lại Phi Châu thì mẹ ngài mất tại Ostie. Việc khởi hành được hoãn lại tới mùa thu năm 388. Cuối cùng ngài tới Thagaste, ở đó, cùng với các bạn, ngài sống một cuộc đời "tìm vui" trong triết học và tôn giáo. Nhưng rồi, mặc dầu là người thường trốn tránh các thành phố có Tòa Giám Mục đang trống ngôi, khi đi ngang Hippone, dân chúng đã bắt ngài để làm phụ tá cho Ðức Giám Mục Valère già yếu : "Bị bắt, tôi đã được phong chức Linh Mục, rồi từ đó, tôi lên chức Giám Mục" vào năm 395.
Trong bản thành tích của mình, Augustin đã soạn được một tác phẩm, vào khoảng năm 380, ngài bắt đầu viết khảo luận "Sur le beau et le convenable" (về cái đẹp và về sự thích hợp) nay đã thất lạc. Thoời gian lưu trú ở Cassiacum gắn liền với những tác phẩm triết học : "Contre les académiciens sceptiques" (chống phái Platon-Hoài Nghi), "Du bonheur" (Về hạnh phúc), "De lordre" (Về trật tự). Khi về Thagaste và cả sau đó, nguồn cảm hứng triết học của ngài hãy còn rất phong phú ; "De limmortalité de lâme" (Về tính bất tử của linh hồn), "De la quantité de lâme" (Về tượng tính của linh hồn), "Du libre arbitre" (Về ý chí tự do), trong đó ngài trình bày tư tưởng ban đầu của ngài về vấn đề này, khác biệt với những quan điểm về sau. "Du Maitre" (Về Vị Tôn Sư), trong đó ngài dành cho "Vị Thầy nội tâm" mãi mãi chiếm vị trí hàng đầu, và bàn luận với người con 16 tuổi về giá trị của ngôn ngữ đối với tri thức. Ngài còn bàn về "Tôn giáo đích thực" (De la vraie religion). Trong tác phẩm này ngài cho thấy tầm quan trọng của lý trí đối với thế giá của đức tin, dưới sự dẫn dắt của Chúa, một vấn đề mà ngài sẽ đề cập trong cuốn "Lutilité de croire" (Sự hữu ích của lòng tin) được soạn lại sau đó ít lâu, và về sau được dùng để chống lại phái Manichée, và trong khảo luận "De la Trinité" (Về Ba Ngôi). Xung quanh Phép Rửa mà ngài lãnh nhận, ngài đã khai mào một cuộc đối thoại với lý trí của mình về những vấn đề siêu hình và về cuộc đời Kitô hữu : đó là "những lời tự thoại" (Soliloques) mà đặc tính riêng tư của nó báo trước kiệt tác, cuốn "Confessions" (Tự thuật).
"CON KIẾM CHO MÌNH MỘT NGƯỜI ÐÀN BÀ KHÁC ."
Tuy nhiên, tội lỗi con ngày càng chồng chất. Khi người phụ nữ đã quen chung chăn xẻ gối với con (1) bị giựt khỏi con như một trở ngại cho cuộc hôn nhân, thì điều đó khiến cho trái tim con, trái tim mà cô ta từng gắn bó, tan nát, mang lấy vết thương và cứ mãi rướm máu. Nàng trở về Phi châu khi đã hứa với Chúa sẽ không biết một người đàn ông nào khác và để lại cho con đức con sinh ra từ cuộc sống chúng ấy.
Nhưng con, trong nỗi bất hạnh của mình, con đã không thể theo gương người phụ nữ. Vì con chẳng phải là người yêu thích hôn nhân cho bằng là tên nô lệ lạc thú, con không thể chịu đựng nổi cái kỳ hạn theo đó hai năm sau con mới cưới người phụ nữ con mong ước, nên con đã kiếm cho mình một người đàn bà khác, không hề là vợ, để một cách nào đó nuôi dưỡng và kéo dài cơn bệnh của tâm hồn con, một cơn bệnh vẫn còn y nguyên, hay đã nặng thêm, do một thói quen con còn giữ mãi cho tới khi cưới. Nhưng điều đó không thể chữa lành vết thương sâu nặng mà sự giựt bỏ ngày trước gây ra : sau cơn đau cháy bỏng và dữ dội, vết thưông đã mưng mủ và niềm đau như càng thêm băng giá và tuyệt vọng hơn.
Xin chúc tụng Chúa, xin tôn vinh Danh Ngài, lạy nguồn mạch xót thương. Phần con, con đã trở nên khốn khổ hơn, còn Chúa lại gần gũi hơn. Giữa lúc đó cánh tay phải của Ngài ở đó giựt thoát con khỏi bùn nhơ và rửa sạch, nhưng con lại không hay biết. Chỉ có nỗi sợ hãi trước cái chết và sự phán xét mai sau của Chúa mới khiến con tránh rơi sâu hơn vào hố thẳm của thú vui xác thịt, một nỗi sợ hãi vẫn hằng canh cánh bên lòng qua bao nhiêu bước đường lầm lạc rõ ràng trong tư tưởng của con. (Confessions VI. 15, 25 - 16, 26. Texte CUF 1925, p. 141 - 142, Trad. Personnelle).
TỪ TÁC PHẨM HORTENSIUS ÐẾN PLOTIN.
Từ tuổi 19, sau khi đọc một tác phẩm của Cicéron mà người ta gọi là Hortencius tại trường của nhà tu từ, lòng tôi cháy bừng ngọn lửa yêu mến đối với triết học, đến nỗi tôi dự tính sẽ miệt mài với nó, không trì hoãn. Nhưng con đường tìm kiếm của tôi không thiếu mây mù làm lạc lối. Phải thú nhận rằng trong một thời gian dài, tôi đã để mình bị dẫn dắt trong lầm lạc, khi dán mắt vào các vì sao băng mình trong khoảng mênh mông. Quả vậy, một nỗi ngại ngùng trẻ con khiến tôi thấy sợ sự tìm kiếm đích thực. Khi tôi chỗi dậy và xua tan những bóng tối đó, tôi cảm thấy xác tín rằng, phải tín nhiệm những người dạy dỗ hơn là những người áp đặt. Tôi rơi vào tay những người nắm giữ thứ ánh sáng mà người ta nhìn thấy bằng mắt, đôi mắt được xem như xứng đáng với sự phụng thờ dành cho các thực tại tối cao và thần linh. Tôi không tán thành, nhưng tôi nghĩ rằng họ che giấu sau những bức màn đó một điều gì đó lớn lao mà họ sẽ đến vén mở (2). Nhưng, khi đã hiểu rõ họ, tôi trốn thoát ra đi, nhất là khi băng qua biển cả, chính những người theo thuyết Platon đã kìm giữ bánh lái thuyền tôi giữa trùng khơi, phải chống chọi với muôn sóng gió.
Sau đó, tôi đã tới miền đất tôi đang ở. Tại đây tôi học biết phải tín thác vào ánh sao nào. Thật vậy, qua những cuộctrao đổi với Ðức Giám Mục của chúng ta, cũng như qua một vài lần nói chuyện với ngài (3) , tôi hiểu ra rằng Thiên Chúa chỉ có thể quan niệm như là Ðấng vô hình vô thể (incorporel), linh hồn cũng vậy, vì trong số các hữu thể, chỉ có linh hồn là gần với Thiên Chúa hơn. Nhưng xin thú nhận rằng, lúc đó sự lôi cuốn của đàn bà và danh vọng đã ngăn cản tôi lao nhanh vào khung trời triết học. Tôi dự tính đạt cho được những lợi thú đó trước rồi cuối cùng, như một số kẻ đã no đầy có thể thực hiện, tôi sẽ hết sức giương buồm, tung cánh, bay vào lãnh vực triết học và an nghỉ trong đó.
Nhưng, sau khi đọc một ít sách của Plotin mà tôi biết ngài cũng rất ham thích, sau khi đã hết sức đối chiếu và dựa vào thẩm quyền của những người đã trao cho chúng ta các Mầu Nhiệm Thánh, thì lòng tôi như thiêu đốt, đến nỗi tôi muốn cắt bỏ mọi dây neo ràng buộc, nếu như lòng quí mến của tôi đối với một số người không làm tôi ban khoăn nghĩ ngợi.
Du Bonheur I, 4 Bibl.Augustin. IV, 1, R. Jolivet, 1948,
p. 227 - 229 et J. Daigon. Ibid. 1986, p 55 - 59 Trad. Modifiée.
(1) Việc chung sống là một tình trạng gần như đã được nhìn nhận và sự chung thủy của bà là một á-nhân-đức (semi - vertu).
(2) Ở đây, Augustin gợi lại kinh nghiệm về thuyết Manichée của ngài trước khi nói về những người theo triết thuyết Platon.
(3) Ngài nói với Mallius Théodorus, một lãnh sự, là Kitô hữu, chịu ảnh hưởng triết Platon
TỪ PLOTIN TỚI THÁNH PHAOLÔ.
Thế rồi, một cuốn sách thật tràn đầy, nói như Cellinus, đã đổ xuống trên chúng tôi những hương thơm của xứ Ảrập và nhỏ xuống trên những ngọn lửa bé nhỏ này những giọt tinh dầu quí giá. Thật không tin nổi, thưa ngài Romanianus, thật không tin nổi, và vựot xa những gì ngài có thể tưởng về tôi. Biết nói sao nữa ? Ðối với tôi, đối với con người tôi, đám lửa sáng rực mà những giọt tinh dầu đó làm bừng lên, thật không tin nổi (1) . Từ nay, có thứ danh dự, danh vọng thế nhân nào, có thứ thèm khát nào, có thứ vinh hoa phù phiếm nào, có thứ quyến rũ, quyến luyến nào trong cõi đời này có thể chạm đến tôi được ? Ngay lập tức, tôi vội vã trở về với lòng mình. Thú thực rằng, tôi chỉ liếc nhìn qua cái tôn giáo vốn đã được cấy trồng trong tôi từ thưở ấu thơ, và như đã ăn sâu đến tận xương tủy, chính tôn giáo đó mới là điều lôi cuốn tôi mà tôi nào có hay. Và thế là, tôi lảo đảo, hết sức vội vàng nhưng cũng thật do dự, cầm lấy sách Tông Ðồ Phaolô, tôi tự nhủ, những người này hẳn không thể làm những việc lớn lao đến thế, không thể sống như họ chắc chắn đã sống, nếu Thánh Kinh và giáo thuyết của họ lại mâu thuẩn với một sự thiện lớn lao dường ấy. Tôi đã đọc trọn cuốn sách một cách rất chăm chú và với tâm hồn hết sức trong sáng.
(Contre les académiciens II, II, 5, Bibl. Augustin IV, 1,
1948, p. 69, Trad. Inspirée de R. Jolivet).
LÒNG KHAO KHÁT CHIÊM NGẮM.
2. Ôi Thiên Chúa Ðấng sáng tạo vũ hoàn. Xin ban cho con, trước hết, được biết nguyện cầu cùng Ngài cho nên, cho con xứng đáng được nhậm lời và sau cùng xin cho con được giải thoát (.) Ôi Thiên Chúa, Người Cha của chân lý, của khôn ngoan, Người Cha của sự sống đích thật và tối thượng, Người Cha của Chân hạnh phúc, của Thiện và Mỹ, Người Cha của ánh sáng khả tri, của sự thức tỉnh và giác ngộ của chúng con, Người Cha của những lời hứa khiến chúng con dạn dĩ trở lại cùng Ngài.
3. Con cầu khấn cùng Ngài, ôi lạy Thiên Chúa chân lý ; trong Ngài, vì Ngài và nhờ Ngài mà tất cả những gì chân thật là chân thật, Thiên Chúa khôn ngoan, trong Ngài, vì Ngài và nhờ Ngài, tất cả những gì khôn ngoan là khôn ngoan (.) Thiên Chúa mà Vương Quốc của Ngài là tất cả thế giới mà giác quan chúng con không hay biết (.). Ôi lạy Thiên Chúa, Ðấng mà nếu quay lại với Ngài chúng con sẽ chỗi dậy, lưu lại trong Ngài chúng con sẽ đứng vững. Thiên Chúa, Ðấng mà nếu rời bỏ Ngài chúng con sẽ chết, trở lại cùng Ngài, chúng con sống lại và cư ngụ nơi Ngài, chúng con được sống. Ôi Thiên Chúa, Ðấng mà chẳng ai mất Ngài nếu đã không lầm lạc, Ðấng mà không tìm kiếm nếu không được Ngài đón trước, và không ai gặp được nếu đã không nên thanh sạch tinh tuyền. Ôi Thiên Chúa, từ bỏ Ngài và chết chỉ là một. Lạy Thiên Chúa, niềm tin thúc đẩy chúng con đến với Ngài, niềm hy vọng nâng chúng con lên cùng Ngài và niềm yêu mến liên kết chúng con với Ngài (.)
5. Này đây, con yêu Ngài, chỉ mình Ngài mà thôi. Con theo Ngài, chỉ mình Ngài mà thôi, con tìm kiếm Ngài, chỉ một mình Ngài ; con sẵn lòng phục vụ Ngài, chỉ một mình Ngài mà thôi ; và chỉ mình Ngài mới đúng là vị Tôn Sư. Con khao khát tùy thuộc vào Ngài (.).xin xua trừ sự điên rồ khỏi con để con nhận biết Ngài. Xin nói cho con phải quay về đâu để khám phá ra Ngài và con hy vọng sẽ chu toàn tất cả những gì Ngài truyền phán (.)
6. (.) Ôi lạy Cha, xin cho con tìm kiếm Ngài và giải thoát con khỏi lầm lạc. Ước gì trong cuộc tìm kiếm, ngoài Ngài ra con không tìm kiếm bất cứ điều gì khác. Nếu quả con không khao khát gì ngoài Ngài thì, ôi lạy Cha, con nguyện xin Ngài cho con được tìm thấy Ngài. Và nếu trong con còn đọng lại niềm khao khát vô ích nào đó, thì xin chính Ngài hãy gột bỏ khỏi con và làm cho con có thể nhìn thấy Ngài.
------------------
(1) Những cuốn sách được đề cập ở đầu đoạn là những tác phẩm của những người theo triết thuyết Platon. "Ngọn lửa bé nhỏ" là sở thích triết học, nay có phần phai lạt, đã từng sưởi ấm Augustin trước khi ngài khám phá ra Plotin. Ở đây, ngài bộc lộ niềm hứng khởi của mình Với Romanianus, bạn và là ân nhân của ngài. Trong cuốn "Rétractation", sự ngưỡng mộ này giảm đi.
(soliloques, I, 1. 2 - 6. Bibl. Augustin. V, 2, 1939,
p. 27 - 35, trad. Personnelle)
NB. Lời cầu nguyện tốt đẹp này, được dâng lên Thiên Chúa của các triết gia, hãy còn nặng màu sắc của triết thuyết Platon. Tuy nhiên, một vài đề tài Kitô giáo và thậm chí đặc thù của Augustin đã xuất hiện : những nhân đức chính (ban đức), việc tìm kiếm Thiên Chúa, vai trò của ân sủng.
BẢN TỔNG KẾT GIAI ÐOẠN ÐẦU DƯỚI CÁI NHÌN CỦA THIÊN CHÚA.
Bộ "Confessions" (Tự thuật, Lời trần tình) được soạn từ năm 397 - 461, thuật lại, trong chín cuốn đầu và kết thúc ở cuốn thứ mười, cuộc đời thánh Augustin cho tới khi mẹ ngài qua đời : Ngài nói đến nỗi khốn cùng của con người không có Thiên Chúa, và sự vươn lên từng bước của ngài đến niềm tôn thờ một Thiên Chúa hiện diện. Nhưng đây không phải là một trình thuật, một nhật ký, cũng không phải là góp nhặt các kỷ niệm. "Confessions" là một lời cầu nguyện dài hơn là một tài liệu lịch sử. Trong lời cầu nguyện đó, tác giả thân thưa với Chúa về 34 năm cuộc đời, ngài suy gẫm hành trình thiêng liêng của mình, sống lại cuộc tìm kiếm Thiên Chúa, vừa xưng thú những bước chân lìa xa Thiên Chúa (aversions) của con người mình, đồng thời công bố lòng thương xót toàn năng không hề lay chuyển của Thiên Chúa đã thứ tha và nâng ngài dậy. Trong "hố thẳm của ý thức nhân linh" ngài cố nắm bắt tia phản chiếu của Thiên Chúa vốn đã bị dục vọng dập tắt, cho đến khi phục hồi được hình ảnh trong cuộc trùng phùng với Thiên Chúa : "Ngài đã tạo dựng chúng con hướng về Ngài, tâm hồn chúng con xao xuyến bao lâu chưa được nghỉ yên trong Chúa" (I, 1, 1 Conff.) Con người - Augustin chỉ thật là mình khi được sự hiện diện của Thiên Chúa nâng cao, siêu vượt trên chính mình ; Thiên Chúa, Ðấng hiện diện "sâu thẳm hơn những gì sâu thẳm nhất của con, và cao vút hơn những gì cao vút nhất của con". Thiên Chúa hiện diện trong nội tâm nhưng tội lỗi phân tán con người ra ngoại giới, khiến con người thẩn thơ với dấu chỉ mà không màng đến ý nghĩa, dừng lại nơi nghệ phẩm mà không biết đến người nghệ sĩ. Chính "trong nội tâm", "chốn thâm nội vĩnh hằng" mà Augustin gặp lại được Thiên Chúa của mình. Ðây là con đường thường hằng của Augustin và cũng là nét độc sáng của ngài.
Ngay trong cuốn Soliloques (Tự thoại), ngài đã cầu xin với Vị "Thiên Chúa không hề đổi thay, xin cho con biết con và xin cho con biết Chúa. Ðó là tất cả điều con nài xin". Ngài biết chiêm ngưỡng vũ trụ, nhưng con người mới là điều duy nhất ngài lưu tâm, vì chính qua con người mà ngài tìm gặp Thiên Chúa. Sau này trong "khảo luận về Tin Mừng Thánh Gioan" (Traités sur lÉvang de Saint Jean) ngài giải thích dài hơn : "Hãy trở vào tâm hồn con (.), hình ảnh Thiên Chúa là ở đó". Người Hylạp nghiên cứu niềm tin thướng là nơi đối tượng mà họ phóng chiếu sang bên kia (au-delà), ra bên ngoài (au-dehors) trong khi Augustin lại đi từ chính huyền nhiệm của con người mình, "một câu hỏi vĩ đại", để đến với huyền nhiệm Thiên Chúa. Theo hướng đi đó, trong chín cuốn đều của bộ Confessions, ngài xem xét dưới góc độ chủ thể sự gắn bó tiệm tiến của một chủ vị, một cái "tôi" với đối tượng đức tin. Còn trong cuốn mười ngài trình bày hiện trạng của mình vào năm 400 : "Không phải như tôi đã là, nhưng như tôi đang là". Ngài ngợi ca thời-gian-tìm-lại-được (temps retrouvé) trong "những lâu đài mênh mông của ký ức", của thời gian, ngợi ca ân sủng của Thiên Chúa và sự đáp trả luôn luôn bất toàn của con người. Tiếp đó, Augustin xác định rõ ràng, ngài xưng ra những điều đó không chỉ với Thiên Chúa "mà còn với các độc giả của ngài", với các "nhân chứng", "những đồng bạn nghèo khó" và là "những người bạn đường" của ngài, như ngài nói sau này, và ngài chờ đợi nơi họ, không phải một sự tò mò thiếu lành mạnh, nhưng là những "tấm lòng huynh đệ", cùng tìm kiếm với ngài. Họ cùng nhau hướng về phía Chúa, trong tình yêu thương lẫn nhau, và đó cũng chính là tình yêu đối với Thiên Chúa. Cuối cùng, ngài dành các cuốn XI - XIII để bàn về những chương đầu sách Khởi Nguyên, là những chương thiết lập mối dây nối kết đích thực giữa con người và Thiên Chúa trong công cuộc tạo dựng, hình ảnh của Giáo Hội và là bằng chứng về vinh quang mai sau.
Suy tư về triết học và thần học tất nhiên làm cho diễn tiến câu chuyện chậm lại, thêm nhiều trang khô khan và đôi khi gai góc, khó hiểu. Tuy nhiên, việc đào sâu suy tư là điều cốt yếu trong ý định của Augustin : cây lê bị đức trẻ vô cớ tàn phá minh họa cho những tác hại và những nguy hiểm của tự do con người. nghiên cứu tâm lý được đẩy đi rất xa, ngay cả đối với những cảm xúc mà đối với chúng ta có vẻ quá tầm thường, chẳng hạn như việc khóc ở rạp hát. Chính những phân tích tâm lý này đã khiến cho bộ "Tự thuật" trở thành miếng mồi cho các nhà phân tâm học thuộc đủ mọi hạng. Cùng với bộ Vulgata (Bản Phổ Thông), cuộc đối thoại chân thành và khiêm tốn này giữa một con người với Thiên Chúa của mình - "Chỉ một mình con trước Thánh Nhan Ngài", diễn tả bằng một ngôn ngữ tao nhã, đã làm thành tòa lâu đài tráng lệ nhất của nền văn chương Latinh Kitô giáo và là một trong những tác phẩm cổ điển của văn chương Tây phương.
NỘI TÂM HÓA : "ÐIỀU TÔI YÊU KHI TÔI YÊU THIÊN CHÚA"
Lay chúa, con ý thức chắc chắn chứ không nghi ngờ rằng con yêu Ngài. Chúa đã đánh động trái tim con bằng Lời của Chúa và con đã yêu Chúa. Nhưng bầu trời, trái đất và mọi điều chúng chứa đựng, tất cả đều nói với con : Hãy yêu Ngài, chúng không ngừng nói điều đó với tất cả mọi người để họ không còn lời bàu chữa .
Nhưng con yêu gì khi yêu Ngài ? Ðó không phải là vẻ đẹp của một thân hình, không phải sự quyến rũ của một khoảnh khắc, không phải vẻ huy hoàng của làn ánh sáng, vốn thân quen với mắt con, cũng chẳng phải sự dịu dàng của những giai điệu trữ tình được hát trên mọi cung bậc, không phải hương của hoa, của dầu hay hương liệu, chẳng phải man-na, chẳng phải mật ong, cũng không phải những tay chân khéo léo trong vòng ôm xác thịt, không, đó không phải là điều con yêu khi con yêu Chúa của con. Nhưng dầu vậy con vẫn yêu một làn ánh sáng, một giọng nói, một hương thơm, một của ăn, một vòng tây ôm nào đó khi con yêu Chúa của con ; ánh sáng, giọng nói, hương thơm, của ăn, vòng tay ôm của con người nội tâm của con, nơi rực sáng trên tâm hồn con điều mà không gian không chứa đựng, nơi ngân vang điều thời gian không cướp mất, nơi tỏa ngát điều hơi gió không làm tan bay, nơi được thưởng nếm thứ của ăn mà sự nghiến ngấu không làm vơi cạn, nơi nối vòng tay ghì siết mà sự thỏa mãn không làm buông lơi. Ðấy là những gì con yêu khi con yêu Thiên Chúa của con.
(Confessions X. 6, 8, CUF, 1926,
p. 245 - 246, trad. Personnelle).
Tất cả được nội tâm hóa trong "lâu đài ký ức" và con người tìm thấy trong mọi sự ở trong mình cùng với Thiên Chúa".
II. NHỮNG THỬ NGHIỆM ÐỜI SỐNG CỘNG ÐOÀN VÀ BỘ LUẬT CỦA THÁNH AUGUSTIN.
CUỘC TÌM TÒI VỀ ÐỜI SỐNG CỘNG ÐOÀN.
Khi thánh Augustin bắt đầu soạn cuốn "Tự Thuật" , năm 397, thì ngài cũng dự tính một công trình khác ngắn hơn, ít hấp dẫn hơn nhiều nhưng lại gây ảnh hưởng quan trọng trong một lãnh vực hoàn toàn khác. Ðó là bộ quy luật đời sống cộng đoàn. Augustin đã hoán cải giữa một cộng đoàn bằng hữu, ngay từ đầu cuộc đối thoại của ngài với Chúa, ngài đã ca ngợi tình bạn, và đây là một chủ đề xuyên suốt tác phẩm của ngài : "Tình bạn thật dịu êm nhờ mối dây thân hữu liên kết nhiều tâm hồn nên một".
Như cha De Beer đã nhận xét, "nhóm", dù đạo hay đời, đều đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời của Augustin. Ngay trong chuyện mình ăn cắp lê, ngài đã nhấn mạnh đến sự "đồng phận (consortium) của những người mà cùng với họ ngài đã phạm tội đó", vả lại ngài coi đó như một hoàn cảnh khiến tội thêm nặng. Sau này, khi dạy học ở Carthage, ngài lập một hội ái hữu đúng nghĩa của nó, trao đổi với nhau rất phong phú trong bầu không khí của thuyết Manichée. Nhiều người trong nhóm họ đã gặp lại nhau ở Milan, và cùng một số khác, họ nhất tâm sống chung với nhau những lúc rãnh rỗi, của cải để chung. Chính ở đây, Cộng Ðoàn đã trở về với Kitô giáo, với sự trở lại cùng lúc của Alypius và Augustin để rồi đạt tới cuộc ẩn cư nghiên cứu triết học tại Cassiacum, ngâm ngợi Thánh Vịnh. Evodius đã đến với họ : "Chúng tôi ở bên nhau, nhất định sống chung, bằng một quyết định thánh thiện". Ở Phi Châu, xem ra Augustin có những điều kiện tốt hơn để phục vụ đời sống cộng đoàn. Augustin đã hiến
ngôi nhà của mình ở Thagaste [Augustin trở về Thagaste, Phi Châu, khoảng năm 388] (1). Alypius, vị "huynh trưởng" , sau khi tìm hiểu một cách có phương pháp, đã soạn ra bản "Qui luật Ðan Viện" (Ordo monasterii) và được thầy mình xem lại. Giữa lúc đó, Augustin nghĩ tới việc lập một "đan viện của những anh em" tại Hippone. Khi Ðức Giám Mục Valère nhờ ngài phụ giúp, thì vị phụ tá đã đặt điều kiện là không phải rời bỏ anh em mình, trong khu vườn của Tòa Giám Mục, ngài sẽ có một khu đất riêng rào kín. Possidius, nhà viết tiểu sử đồng thời với Augustin cho biết những giáo hữu này sống theo tinh thần của cộng đoàn tông đồ tại Jérusalem. Năm 396, khi trở thành người coi sóc Giáo Phận, Augustin đã dần dần, nhưng không phải là không gặp đau khổ, áp dụng "Luật các tông đồ" cho hàng giáo sĩ của mình : tài sản để chung, sống trong khiết tịnh và khổ chế tùy sức chịu đựng của mỗi người. Ngài sống xa anh em giáo hữu, sợ các hoạt động mục vụ của mình làm xáo trộn sự tĩnh lặng của họ, tuy nhiên, theo yêu cầu của giáo dân, vào khoảng năm 397 ngài soạn cho họ một cuốn thủ bản đời sống Kitô hữu (De agone Christiano).
BỘ LUẬT CỦA THÁNH AUGUSTIN.
Bộ luật (praeceptum) hay Chỉ Thị (Intruction) này, cùng với 9 tác phẩm cùng loại, tất cả ít ra, đã được soạn theo tinh thần của Augustin, mặc dầu người ta vẫn luôn tranh cãi về tính chính thực (authenticité littéral) của các bản văn đó, bộ luật này sẽ gặt hái thành công vang dội về sau. Cũng như bộ "Tự Thuật" đã chuyển thành lời cầu nguyện mọi khúc quanh trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa của Augustin, thì bộ luật ghi lại, chuyển thành văn, cuộc tìm tòi lâu dài về đời sống cộng đoàn của ngài. Trong thực tế, nó tiếp nhận những thói quen của nếp sống Roma, cùng với việc để giờ nghiên cứu triết học như đã được duy trì ở Cassiacum. Ðòi hỏi khổ chế của bộ luật rất gắt gao nhưng uyển chuyển, thích ứng với khả năng mỗi người. Tất nhiên, nó duy trì việc đọc Kinh Thánh, nhất là sách Thánh Vịnh, vì lúc bấy giờ Thánh Vịnh diễn tả tuyệt vời niềm hăng say nhiệt thành của những chàng thanh niên mới trở lại. Một trong số các tác phẩm cùng loại còn nói lên mối quan tâm làm sao có được một bản dịch chính xác và tao nhã. Trong các vấn đề liên quan đến Kinh Thánh, vị "huynh trưởng" (Prévêt) có thể được môt Linh Mục giúp đỡ. Trong một tác phẩm soạn năm 401, "Về các sinh hoạt của đan sĩ" (Sur les activités des moines) có cách diễn tả rất gần với bộ luật, thánh Augustin đòi anh em ngài ở Carthage, bên cạnh việc cầu nguyện, phải làm việc trí thức, mục vụ hoặc làm việc tay chân, và ngài còn ám chỉ đến cộng đoàn Tông Ðồ tiên khởi.
Thánh Augustin đặt hai bản văn sách Công Vụ liên quan đến cộng đoàn Jérusalem vào trung tâm của bộ luật : một mặt, là sự duy nhất "một tấm lòng, một linh hồn" bao hàm việc chia sẻ với nhau hoàn toàn (Cv 4, 32 - 36) và đây là điều làm nên nền tảng và tinh thần của cộng đoàn, có giá trị phổ quát, mặt khác là những thực hành đạo đức, chung quanh việc để chung của cải, diễn tả tùy theo các hoàn cảnh sự duy nhất của Thiên Chúa (Cv 2, 42 - 47), khi phải nhận định về bản luật mà Alypius soạn, ngài thấy nó quá nghiêng về thực hành, và đã cho viết thêm vào đầu bộ luật : Trước hết chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa và anh em đồng loại. Như thế, ở đây, ngài đặt đức ái của Thần Khí lên đầu bộ luật, chính đức ái đó sẽ kéo theo cộng đoàn cụ thể bên ngoài. Cũng vậy sau khi kể ra các giới luật, ngài nhắc nhở trong lời nguyện kết thúc : tinh thần bác ái và tự do phải là sức sống linh hoạt tất cả. Các qui định cụ thể, tuy ít và có thể thích nghi theo hoàn cảnh, nhưng chúng chỉ có ý nghĩa khi đặt vào trong tinh thần đó. Chính Tình Yêu là lý do hiện hữu của Ðan Viện, và chính tình yêu mới mang lại chứng tá. Lại nữa, với thời gian, dường như bộ luật được gắn vào trong "Thành Ðô Thiên Chúa". Có thể hình dung các đan viện như những điểm thả neo của Tình Yêu, nơi mà Thành Ðô Thiên Chúa vươn tới sự tỏ lộ hữu hình giữa nhân loại. Tuy nhiên, không phải chỉ có các đan viện mới là không gian của thánh thiện, vì thánh thiện là lý tưởng phổ quát, dành cho mọi người.
Bộ luật thánh Augustin, cùng với nhiều bản luật khác, lần lượt xuất hiện ở Tây Phương từ thế kỷ V - VII, nhất là bộ luật của thánh Benoit de Nursie vào thế kỷ VI, càng có một ảnh hưởng rộng lớn hơn
-----------------
(1) Chú thích của người dịch.
khi nó áp dụng cho nữ đan sĩ lẫn nam đan sĩ. Bản văn soạn cho các nữ đan sĩ nằm trong một tài liệu quan trọng (Thư 221), nhưng đôi lúc, mãi cho tới sau này, người ta nghĩ rằng ban đầu Bộ Luật được soạn cho các nữ tu hơn là cho cộng đoàn Hippone. Dầu sao, lúc vị Giám Mục còn sống, thì đã có các nữ tu "Augustines", chủ yếu sống đời chiêm niệm, nhưng họ còn lo cho các trẻ em bị bỏ rơi. Thánh Augustin đã tổ chức hàng giáo sĩ của ngài thành cộng đoàn, theo kinh nghiệm đã được Eusèbe de Verceil thử nghiệm 30 năm trước, rồi được thánh Ambroise lặp lại. Theo gương Hippone, các Giám Mục của Giáo Hội Latinh ngày càng hướng dần đến việc sống chung với các giáo sĩ xung quanh nhà thờ Chính Tòa của các ngài. Ðó là nguồn gốc các kinh sĩ dòng rồi tiếp đến là các nữ kinh sĩ. Bộ luật, với sự uyển chuyển và chứa đựng một kinh nhgiệm phong phú, đa dạng, cũng đã làm phát triển ngành đan tu của mình, điển hình là các ẩn sĩ dòng thánh Augustin rất có uy thế ở thời Trung cổ (1250), các nữ ẩn sĩ dòng thánh Augustin, các hội dòng nghiêng về hoạt động tông đồ như dòng Ba Ngôi, dòng Thương Xót (LOrdre de la Merci) hay dòng Nữ Tỳ (Les Servites). Ơn gọi giáo dục và phục vụ bệnh viện manh nha ngay từ buổi đầu, đã phát triển cách lạ lùng trong giới phụ nữ. Bộ luật - với 246 dòng, theo ấn bản phê bình của cha Verheigen (-đã bảo đảm urbi et orbi khắp nơi) một sự hiện diện thường xuyên và sẽ kéo dài mãi của thánh Augustin.
(Còn tiếp)
|