Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao
sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giêsu
lại nói rằng sắp tới giờ Ngài
được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là
một sự kiện duy nhất không?
2. Tại sao khi
Đức Giêsu được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng
được tôn vinh nơi Người? Có gì tương
tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi
Đức Giêsu không?
3. Tại sao sự
yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn
đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có
phải là dấu chứng không?
Suy tư gợi ý:
Thiên Chúa được tôn
vinh nơi Đức Giêsu và qua Đức Giêsu
a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu
nhiệm vượt qua
«Giờ đây, Con Người
được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn
vinh nơi Người». Đức Giêsu nói điều
này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà
Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và
«được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một
sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục
sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại
nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không
thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một
tờ giấy duy nhất.
Đó là chính là nội dung
và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì
đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không
thể tách rời nhau, nên muốn đạt được
cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử
nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải
qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng
tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ
làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc
được. Một học sinh không chịu khó nhọc
học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận
gì.
Ý thức được thực
tế của mầu nhiệm vượt qua, người
kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh
phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được
vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục
sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực
tế của đời sống không cho phép như thế.
Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh
quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần
tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả
mọi người, vì những ước muốn đó
thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi
xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước
muốn không thực tế đó. Kẻ
trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người,
gian dâm, v.v… đều là những kẻ muốn hạnh
phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới
đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giêsu:
«Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường
thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều
người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và
đường chật thì đưa đến sự sống,
nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt
7,13-14).
b) Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người là một
«Giờ đây, Con Người
được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn
vinh nơi Người». Đức Giêsu và Thiên Chúa đều
được tôn vinh trong cùng một con người (là
chính Đức Giêsu), và trong cùng một sự việc (là cuộc
tử nạn). Điều này cho thấy Đức
Giêsu và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến
mức có thể nói Đức Giêsu và Thiên Chúa là hai mặt
khác nhau của một thực tại duy nhất: con người
Đức Giêsu. Có thể nói Đức Giêsu, một mặt
là một con người yếu đuối, bị hạn
chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là
một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi
mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau
nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau
thành một con người duy nhất.
Đức Giêsu chính là mô
hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người
kitô-hữu.
Cũng tương tự như Đức Giêsu, một mặt
ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu
đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt
ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn,
mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần
bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần
linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở
dạng mầm, chưa phát triển. Bổn
phận và sứ mạng của người kitô-hữu là
phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày
càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức
được tính chất thần linh của mình, và cố
gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì
tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.
Khi mầm thần linh ấy
phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử
sự như Đức Giêsu, thì ta có thể nói được
như Ngài: «Giờ đây, Con Người được
tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi
Người». Thiên Chúa chỉ được
tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần
linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm
thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta.
Đức Giêsu đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở
trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản
thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy,
giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất
trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn
lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây,
đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành
được» (Mt 13,32). Nhưng mầm
thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng
ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn
lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là
điều kiện phát triển tính thần linh trong ta
Mầm thần linh ấy
không thể phát triển được trong một con
người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong
ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự
việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng
coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng
cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất
thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé
đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội
lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được
hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng
tội». Điều ấy không phải là không
có ý nghĩa. Tội lỗi được
hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng.
Và sự thánh thiện thì ngược lại,
được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự
huỷ cái tôi của mình đi. Đức Giêsu đã từng
nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu
không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu
chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần
linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh
hoa kết trái.
Yêu thương chính là quên
mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với
Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện,
cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan
đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của
Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình
yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên
Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã
được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương
thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu
chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự
hiện diện của Thiên Chúa. Người
nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì
càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có
Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm
thần linh ấy không thể được phát triển
nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của
mình quá lớn.
Chính vì thế, trước
khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn
và về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu cho các môn đệ biết
cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể
căn cứ vào đó mà biết được ai là môn
đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu
thương đối với mọi người, và nhất
là đối với nhau. «Mọi người
sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau».
Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ…
chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người
kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn
có thể giả mạo. Còn sự yêu
thương – được thể hiện cụ thể
bằng hành động – mới là dấu chứng thật
sự của người kitô-hữu. Người
yêu thương thực sự biết quên mình để hy
sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội,
thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi.
Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không
tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực
mà thôi (xem Rm 2,12-24).
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin biến cải
lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước
Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương,
để mọi người nhận ra sự hiện diện
của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.