Mẹ Maria trong mầu
nhiệm truyền tin
L.m. Nguyễn Công
Lý, OP
Để hiểu
về Mẹ Maria trong mầu nhiệm truyền tin, thiết
tưởng chúng ta cần nói qua về mầu nhiệm tình
yêu của Thiên Chúa. Đây là chân lý nền tảng: Chúa
yêu ta, và đã cứu ta nhờ Đức Giêsu Kitô. Việc
cứu độ này trước hết và trên hết, có
tính cách siêu nhiên, nghĩa la bao gồm việc tha tội, việc
cho ta được trở thành con Chúa, và vì thế
được mọi ơn lành về tinh thần cũng
như vật chất. Thánh Phaolô trong thư II gởi giáo
đoàn Côrintô đã tóm lược về ơn cứu độ
như sau:
"Ai ở
trong Đức Kitô thì người ấy là tạo vật
mới: vì cũ đã qua và mới đã thành tựu.
Nhưng mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng
đã giao hòa ta lại với Ngài, nhờ Đức Kitô, và
đã ban cho chúng ta được giúp việc giao hòa đó.
Vì chính nhờ Đức Kitô thì Thiên Chúa, Đấng mưu
cuộc giao hòa thế gian với chính mình Ngài, đã không còn
đếm xỉa đến các lầm lỗi của họ,
và trao cho chúng tôi sứ mệnh laon bao ơn giao hòa. Là sứ
giả thay mặt Đức Kitô, chúng tôi tin chắc rằng
Thiên Chúa dùng chúng tôi để rao giảng. Vậy nhân danh
Đức Kitô, chúng tôi xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa.
Đấng không hề biết tội lỗi, thì vì ta, Thiên
Chúa đã làm cho Người thành 'sự tội', ngõ hầu
trong Ngài ta được trở thành 'sự công chính' của
Thiên Chúa" (I Cor. 5:17-21).
Trong
chương vừa kể, thánh Phaolô nói đến những
yếu tố tích cực và tiêu cực của ơn cứu
độ tức là: Cũ đã qua, mới đã thực
hiện. Chúa Cha là chủ động thứ nhất của
ơn cứu độ. Chúa Con là chủ động thứ
hai, các Tông đồ là chủ động thứ ba. Còn
chúng ta, chúng ta phải làm hòa với Thiên Chúa, đó là sự
sống con cái Chúa.
Chúa Giêsu khai mạc
cuộc cứu đời bằng việc Nhập Thể.
Rồi Ngài tiếp tục công việc đó trong suốt cuộc
đời và kết thúc bằng một cuộc tử nạn
trên núi sọ. Khi sống lại, lên trời, thì Chúa lại
chính là Đấng ban Thánh Thần một cách hiển hiện
trong ngày lễ Hiện Xuống. Như thế là Chúa Giêsu
đã hoàn tất công việc cứu thế khách quan. Và
đó là công việc lịch sử của Chúa Giêsu làm ngày
xưa.
Từ tòa thiên quốc,
và nhờ phép Thánh Thể, Chúa Giêsu tiếp tục công việc
cứu thế chủ quan, nghĩa là Ngài áp dụng công việc
cứu thế Ngài đã thực hiện xưa, vào từng
tín hữu, cho tới ngày tái lâm. Đó là công việc Chúa
Giêsu làm hiện nay và mãi mãi.
Chiếu theo
chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã cộng
tác một cách đầy đủ và trọn vẹn trong
việc cứu độ này, như một Evà mới của
Chúa Giêsu, là Adam mới. Chính Đức Mẹ ban cho ta Đấng
Cứu Thế sau khi đã ưng thuận chịu thai Ngài một
cách ý thức, tự do và đầy công phúc trong ngày truyền
tin. Rồi Đức Mẹ đã cộng tác với Chúa
Con trong suốt cuộc sống, từ Belem cho tới Calvario. Đức Mẹ
cũng hiện diện trong ngày Hiện Xuống. Và sau khi
lên trời cả hồn lẫn xác, thì với tư cách là
mẹ và là hoàng hậu, Đức Mẹ cộng tác với
Chúa Giêsu trong việc áp dụng ơn cứu độ cho mọi
người. Đấy là công việc thực hiện
xưa, nay và mãi mãi.
Để hiểu
hơn nữa về việc Đức Mẹ cộng tác với
Chúa Giêsu trong việc cứ thế, đặc biệt là
trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta nên tìm hiểu
thêm Công Đồng Vaticanô II nói gì về vấn đề
này. Trước hết, ta nên biết rằng một trong
những điểm nổi bật của Công Đồng
là việc nhấn mạnh đến giá trị cứu
độ của mầu nhiệm nhập thể. Vì theo
đạo lý Công Đồng thì trong lúc nhập thể, khi
thực hiện việc " này con đến để
làm theo thánh ý Cha", thì Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc
cứu thế. Các mầu nhiệm khác chỉ là những tiến
triển của mầu nhiệm tiên khởi này. Đối
với Đức Mẹ cũng vậy. Khi thứ tiếng
"xin vâng" trong phút thiên thần truyền tin, thì Đức
Mẹ bắt đầu làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Chính trong lúc đó, Chúa Thánh Thần hoạt động
để thực hiện việc cấu tạo nên thân xác
Chúa Cứu Thế trong lòng Đức Mẹ, và nhờ
đó Chúa Giêsu mới bắt đầu thực hiện
được việc cứu thế. Và vì Đức Mẹ
là Mẹ, cho nên cũng trong lúc ấy Đức Mẹ
đã "xin vâng" để cộng tác với Con trong mọi
sự. Vì thế tất cả các mầu nhiệm khác về
Đức Mẹ, kể cả việc Đức Mẹ
hiện diện ở núi Sọ, chỉ là những phát triển
và áp dụng của mầu nhiệm "xin vâng" trong
ngày truyền tin.
Từ trước
tới nay, người ta thường kể tới sự
hiện diện của Đức Mẹ tại chân đồi
Calvario, để minh chứng sự đồng công cộng
tác của Đức mẹ trong việc cứu thế.
Nhưng theo Công Đồng Vaticanoo II thì sự hiện diện
của Đức Mẹ ở núi Sọ chỉ là hậu
quả của lời "xin vâng" trong ngày truyền tin.
Vì thế Chúa Giêsu không cần hỏi sự đồn gý của
Đức Mẹ để tuyên bố Ngài là mẹ loài
người, khi trao phó Gioan cho Đức Mẹ. Vì sự
đồng ý đó đã được biểu lộ ngay
trong ngày truyền tin.
Như thế
chúng ta có thể quả quyết rằng, chiếu theo Thánh
kinh và Lưu truyền, Công Đồng Vaticanô II đã nêu lên
một điểm quan trọng trong mầu nhiệm truyền
tin, khi quả quyết rằng từ lúc đó Đức Mẹ
bắt đầu hoạt động trong việc cộng
tác cứu đời (L.G.). Phải, Đức Mẹ bắt
đầu cộng tác trong việc cứu thế ngay từ
lúc truyền tin vì hai lý do: 1. Đức Mẹ đã ý
thức và tự do nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế,
Đấng sẽ là sự sống của nhân loại. 2.
Trong đức tin và vâng phục, Đức Mẹ đã cộng
tác với Con của Ngài, và các việc Con Ngài sẽ làm. Và
Đức Mẹ cộng tác như một "nữ tới"
đối với chủ, khi thưa: Này tôi là tôi tớ
Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền.
Để rõ
hơn về địa vị của Đức Mẹ
trong công cuộc cộng tác cứu thế, chúng ta
cũng nên hiểu lý do của mầu nhiệm truyền
tin. Theo đạo Công Đồng Vaticanô II thì vai chủ
động trong mầu nhiệm truyền tin là Chúa Cha,
Đấng là Cha hay thương xót. Chiếu theo
chương trình tự do đã có từ đời đời,
Ngài có sáng kiến và quyết định ban cho nhân loại
một Đấng Cứu Thế, và ban cho Đấng Cứu
Thế một người Mẹ, một người mẹ
được chọn giữa con cái loài người,
để nhờ đó Đấng Cứu Thế sẽ trở
thành cùng dòng máu với gia đình nhân loại, là kẻ sẽ
được cứu độ. Việc làm Mẹ Chúa Cứu
Thế không phải chỉ là một tác động thể
lý, nhưng còn là một hiệu quả của một sự
ưng thuận đầy ý thức và tự do của
Đức Mẹ, Đấng đã được Chúa tièn
định trong công việc trọng đại này. Công
Đồng nói, "Chúa Cha Đấng hay thương xót,
đã muốn sự đồng ý của Đức Mẹ,
trước khi có sự Nhập thể của Ngôi Lời."
(n.56). Và đấy là lý do tại sao có chương Phúc âm thực
ý vị của Thánh Luca (1:26-38) tả về câu truyện
truyền tin, về cuộc đối thoại giữa
Thiên Thần và Đức Mẹ, và sau cùng là sự đồng
ý của Mẹ Maria.
Như thé là sự
chấp nhận đầy ý thức và tự do của
Đức Mẹ đối với mầu nhiệm Nhập
Thể là một điều đã có trong chương trình
cứu độ của Thiên Chúa. Vì cũng như do một
Phụ Nữ mà mọi người phải chết, thì
cũng nhờ một Phụ Nữ mà nhân loại
được sống (n.56). Với những lời lẽ
đó Công Đồng muốn nhắc lại nguyên tắc
"tương phản" mà thánh Ireneo đã đề
nghị. Nghĩa là chương trình cứu độ
tương phản lại chương trình phá hoại. Và
nhứ thế Đức Maria là Tân Evà, Ngài sửa lại
những gì Evà làm đổ vỡ.
Những yêu sách của
truyền tin
Giây phút "truyền
tin" bắt đầu một kỷ nguyên mới. Giây phúc
"truyền tin" thật là quan trong đối với
Thánh mẫu học. Từ giây phúc thưa hai tiếng
"xin vâng", Đức Mẹ Maria trở thành một tạo
vật đặc biệt, trở nên Mẹ Thiên Chúa, Mẹ
Đấng Cứu thế, Mẹ loài người, Mẹ
Giáo Hội, và mẹ từng tín hữu. Vì thế những
yêu sách của "phúc truyền tin" cũng thực
lớn lao vè phía Chúa và về phía Đức Mẹ. Ta xem
Công Đồng Vaticanô II nói gì về những yêu sách ấy.
Về
phía Chúa:
1- Trước hết,
Công Đồng quả quyết: Đức Mẹ
được Chúa làm cho nên phong phúc về mọi ơn, xứng
hợp với thiên chức "Mẹ Chúa". Như thế
là một cách gián tiếp Công Đồng nhắc lại
nguyên tắc thường gọi trong giáo lý là "xứng
tiện: convenientiae". Nghĩa là theo các nhà Thần học
thì những gì nên làm, và có thể làm thì Chúa đã làm: decuit,
potuit ergo fecit. Nguyên tắc này thường được
áp dụng trong Thánh mẫu học.
Không phải theo
cảm tình hay sở thích cá nhân, mà chính là dựa vào hoàn cảnh
cụ thể của phút "truyền tin" mà Công Đồng
đã áp dụng nguyên tắc này. Trong giờ phút "truyền
tin", Đức Mẹ trở nên Mẹ Chúa Cứu
Thế. Đó là điều Thánh kinh, Lưu truyền và Giáo
hội vẫn dạy. Dựa vào sự việc đó, và nhờ
ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, Giáo hội đã muốn áp dụng
nguyên tắc "xứng tiện" này nơi chính Thiên
Chúa đối với Đức Mẹ.
2- Cũng theo
nguyên tắc đó Công Đồng quyết thêm: Vì muốn
cho Đức Maria trở nên Mẹ Chúa Cứu Thế, Mẹ
Thiên Chúa, nên Chúa phải làm cho Đức Mẹ trở thành
rất thánh, không vướng tì ố tội lỗi. Nói
như thế là Công Đồng dựa vào thế giá các Giáo
phụ, để chỉ sự thánh thiện tích cực của
Đức Mẹ - Về phương diện tiêu cực:
Đức Mẹ không vướng một chút tì ố tội
lỗi - Về phương diện tích cực: Đức
Mẹ là đấng rất thánh, được Chúa Thánh thần
tác tạo như một thụ sinh mới. Đấy là những
điểm các thánh Giáo phụ thường nói về Đức
Mẹ, và Công Đồng nhận những quan niệm
đó như của chính Công Đồng.
3- Công Đồng
còn nói thêm rằng: Ngay từ phút đầu vừa thụ
thai, Đức Mẹ được trang điểm bằng
mọi huy hoàng của sự thánh thiện đặc biệt,
và vì thế Ngài đã trở thành xứng đáng để
chịu thai Ngôi Lời, mà không bị một mảy may tội
lỗi hay lòng ích kỷ chi phối. Công Đồng không dùng
kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Pio IX khi tuyên bố
tín điều Đưc Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, vì
Công Đồng có ý trưng lại quan niệm của các
thánh Giáo phụ về sự thánh thiện và sự không
vương vấn tội lỗi nơi Đức Mẹ.
Tuy thế, trong triệt 5 của sô 59 Hiến Chế Lumen
Gentium, Công Đồng có nhắc đến câu định
tín vừa kể trên:
4- Để minh
chứng việc Đức Mẹ thánh thiện, Công Đồng
nói: theo lệnh của Chúa, Thiên thần đã chào Mẹ là
"Đấng đầy ơn phúc" (Lc. 1:28). Ở đây Công Đồng cũng
không muốn đưa ra một cách cắt nghĩa nào về
câu "Đấng đầy ơn phúc", nhưng vẫn
còn để cho các nhà chú giải tự do tìm hiểu theo
ngôn ngữ học. Nhưng Công Đồng muốn nói Chúa
phải làm cho Đức Mẹ đầy ơn phúc, đầy
sự thánh thiện và không hề vương vấn bất
cứ một thứ tội lỗi nào, để xứng
đáng làm Mẹ Ngôi Hai giáng trần. Và nói nhứ thế là
dựa vào Thánh kinh, vào Lưu truyền và vào đạo lý của
Giáo hội từ xưa tới nay.
Về
phía Đức Mẹ:
Về phía Đức
Mẹ, phút "truyền tin" cũng đem lại những
yêu sách đặc biệt.
1- Công Đồng
tóm tắc bằng một câu vắn vỏi, nhưng rất
quan trọng khi nói: Công tác của Đức Mẹ là công
tác của một "tới nữ" của Thiên Chúa.
Đức Mẹ đã tận hiến cho Ngôi Lời là Con
của Đức Mẹ, ngay khi Ngôi Lời nhận láy bản
tính nhân loại trong lòng Đức Mẹ, để nhờ
các mầu nhiệm của thân xác đó, Chúa cứu vãn con
người tội lỗi (L.G. 55). Công Đồng muốn
nêu cao giá trị cứu độ của Đức Mẹ
trong giờ phút truyền tin, và đặc biệt Đức
Mẹ đã cộng tác một cách tích cực vào sứ vụ
công khai của Chúa Cứu Thế. Và quả quyết như
thế vì đã có lời Thánh kinh kể lại: Đức
Mẹ trả lời cho Thiên sứ: "Này tôi là nữ tớ
Chúa, xin thi hành nơi tôi như lời Ngài đã nói" (Lc
1:38).
2- Việc tình
nguyện tận hiến phục vụ mầu nhiệm cứu
độ như thế, không phải là một việc
riêng rẽ, nhưng đi liền với thiên chức
"Mẹ Chúa Cứu Thế" với việc Đức
Mẹ được đầy ơn phúc, và việc Đức
Mẹ được Chúa ban cho mọi ơn một cách
nhưng không. Nghĩa là Đức Mẹ đã tích cực
cộng tác với Chúa Con để cứu nhân loại trong
lòng tin và vâng phục Chúa Con, và cùng với Chúa Con, nhờ
ơn Thiên Chúa toàn năng. Đây là nguyên văn Công Đồng:
Nhứ thế Đức Mẹ Maria, một nữ tử
của Adam, khi ưng thuận lời Chúa truyền, đã
trở thành Mẹ Chúa Giêsu, và với tất cả tâm hồn,
chứ không vì một mảy may ẩn ý tội lỗi.
Đức Mẹ đã nhận lấy thánh ý cứu độ
của Thiên Chúa. Và như một nữ tớ của Chúa,
Đức Mẹ tận hiến hoàn toàn cho Chúa Con và công việc
của Ngài để phục vụ mầu nhiệm cứu
độ, dưới quyền điều kiển của
Chúa con và cùng với Chúa Con, nhờ ơn Thiên Chúa toàn nằng
(L.G. 56). Trên đây là những quả quyết quan trọng
nhất của Công Đồng Vaticanô II về Đức Mẹ.
3- Khi quả quyết
về mối tương quan giữ Đức Mẹ và
công việc cứu độ trong giờ phúc "truyền
tin". Công Đồng không những chú ý đến điều
các nhà chú giải Thánh kinh đã tìm thấy nơi Phúc âm thánh
Luca, mà nhất là chú ý đén điều các thánh Giáo phụ
đã dạy. Các ngài đã phân tách hai điểm tích cực
và tiêu cực trong việc này. Tiêu cực: theo các thánh Giáo phụ
thì Đức Mẹ không phải chỉ là một dụng
cụ thụ động ở nơi tay Chúa. Tích cực:
nhưng với đầy lòng tin và vâng phục, Đức
Mẹ đã công tác thực sự trong công việc cứu
độ nhân loại. Hai điểm tiêu cực và tích cực
này đã được các thánh Giáo phụ đề cập
và quảng diễn ngay từ thời thánh Irênêô (202). Việc
quảng diễn đã được tóm lại trong 4
điểm này:
a/ Khi vâng lời
như thế, Đức Mẹ trở nên căn nguyên cứu
độ cho chính Ngài, và cho tất cả nhân loại (Adv.
Haer. III, 22,4).
b/ Vì thế việc
bà Evà đã thắt buộc lại vì không vâng phục thì
Đức Mẹ đã thóa cởi ra vì vâng phục. Việc
bà Evà thắt buộc lại vì thiếu lòng tin, thì Đức
Mẹ đã cởi ra vì lòng tin. Evà bất tuân lệnh Chúa cấm
ăn trái biết lành biết dữ vì theo lời dối
trá của ma quỉ, còn Đức Mẹ Maria thì trái lại,
Ngài đã vâng lời thiên thần báo tin về chương
trình cứu độ của Chúa, và Đức mẹ vâng
theo thánh ý Chúa một cách ngoan ngoãn như một nữ tới
hay vâng phục.
c/ Cũng như
bà Evà, Đức Mẹ Maria được gọi là Mẹ
những kẻ sống. Dĩ nhiên chúng ta không bàn đến
một chức vụ là mẹ thể lý như bà Evà, mà
đề cập đến một chức vụ làm mẹ
thiêng liêng của những kẻ được sống và
sống đời đời, nhờ Chúa Giêsu con Đức
Mẹ.
d/ Chết là do
Evà thí sống là do Đức Mẹ Maria. Evà đem lại
cho nhân loại cái chết, một cái chét thiêng liêng, tức
là tội lỗi, làm cho mất ơn nghĩa với Chúa.
Cái chết này lưu truyền cho con cháu. Ngoài cái chết
thiêng liêng lại có cả cái chết thể lý. Chết thể
lý là hình phạt của tôi Adam và Evà. Đức Mẹ Maria
làm cho người ta được hai cái sống: Một
cái sống thiêng liêng, nghĩa là được lại
ơn nghĩa với Chúa, nhờ sự hy sinh đền tội
của Chúa Giêsu, Con của Đức Mẹ, Ngài là nguồn
mọi sự thánh thiện Đức Mẹ cũng đem
lại cho nhân loại một cái sống thể lý, nghĩa
là nhờ Chúa Giêsu, Con thực của Đức Mẹ,
Đấng đã chịu chết và sống lại, thì xác
loài người, sau khi chết và tan rã, sẽ được
sống lại, và sống đời đời.
Kết
luận:
Mầu nhiệm
cứu độ trong giây phúc "truyền tin" có thể
tóm lược bằng những lời đầy ý
nghĩa của Đức Giáo Hoàng VI đọc trong ngày 25
tháng 3 năm 1973:
"Trong mầu
nhiệm 'truyền tin' chúng ta chào mừng việc Đức
Kitô giáng trần. Đây là trung tâm điểm của mầu
nhiệm Nhập Thể. Là một biến cố đặc
biệt, mới lạ và đẹp đẽ nhất của
nhân loại. Khi Ngôi Hai nhập thể làm người, Ngài
đã mặc khải cho ta mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa,
và đổ xuống trên nhân loại một đời sống
mới, đời sống siêu nhiên, và làm cho nhân loại
được thông công sự sống của chính Thiên Chúa.
trong giờ phút truyền tin, Đức Kitô cũng để
lại những điều kiện căn bản về việc
cứu đô, về nước Chúa, một nước
băt dầu với Đức Kitô trong thời gian, à sẽ
kéo dài qua mọi thời gian, để kết thúc trong
đời đời vô tận.
"Hạnh phúc
đó, tương lai đó, và ơn gọi đó đã mở
ra cho chúng ta trong giờ phút truyền tin. Và Mẹ Maria, một
đấng rất khiêm nhường trong sạch, với một
lòng vâng phục đầy yêu mến, và nhờ ơn Chúa
Thánh Thần, đã nhận trở thành Mẹ Đồng
trinh của Đấng vừa là Chúa vừa là người,
tức là Chúa Giêsu Kitô. Đấy là trung tâm điểm của
các mầu nhiệm, của chân lý, và của thực tại..."