CON
NGƯỜI VÀ ĐỜI SỐNG CẦU NGUYỆN
1. Tôn
giáo và cầu nguyện:
Chúng ta vẫn
nghe nói việc cầu nguyện trong đời sống co người cần
thiết như hơi thở. Thật vậy, con người có thể
tạm nhịn ăn, nhịn uống, nhưng không thể nhịn
thở được. Cũng vậy, một tôn giáo muốn cho tín đồ
của mình giữ vững niềm tin hoặc để niềm tin nẩy nở,
thì không thể không cũng cố đời sống cầu nguyện. Cầu
nguyện là vấn đề sinh tử, sống còn của một tôn giáo.
Tôn giáo
và việc cầu nguyện luôn đi đôi với nhau,
không thể tách rời ra được. Dù ở thời đại nào.
Thượng cổ. Bán khai, ăn lông ở lỗ hay trong thời đại
kỹ thuật văn minh hiện nay, trong đáy sâu của lòng con
người vẫn có một nỗi khát vọng thầm kín là muốn tìm
kiếm một Đấng Thần Linh để phù trợ và để yêu thương
mình. Những người sống trong rừng thiên nước độc, hay
tại góc biển chận trời nào, dù không có ai dạy bảo,
vẫn tin và vẫn tôn kính vái lạy tẩm nhẩm những lời
cầu khấn ông trời hoặc thần sông, thần núi, thần biển,
thần gió…
Nếu lần
giở lại các trang lịch sử cổ xưa của nhân
loại, người ta sẽ thấy rằng có con người là có tôn
giáo, và tôn giáo được thể hiện trong các nghi thức tế
tự, cầu nguyện. Người ta có thể nói được rằng nền
văn minh cơ bản nhất của con người gắn liền với tôn
giáo và tôn giáo thì gắn liền với cầu nguyện. Đã có
thời người ta tưởng rằng văn minh khoa học kỹ thuật
sẽ thay thế tôn giáo và triết lý. Ngày nay thì những người
quá ngây thơ, đầu óc quá thiên lệch về một thứ thực
dụng, duy lý nào đó thì mới tin như vậy. Bởi vì khoa
học không mang lại ý nghĩa căn bản cho cuộc sống, khoa
học phải nhờ đến triết lý, và triết lý dến cùng phải
đi đến tôn giáo, và tôn giáo đến cùng là một thứ tương
giao với Thượng đế bằng phượng tự, hay nói chung là
bằng cầu nguyện.
Triết gia
Peter Wust, sau nhiều năm miệt mài với triết lý trước
khi rời đại học, đã viết cho sinh viên một bức thư
“Nếu
lúc nào tôi sắp sửa chia tay với các bạn, nếu vaò lúc
sắp sửa chia tay vĩnh viễn này, có bạn nào hỏ tôi có
chìa khoá thần nào giúp ra mở được cán cửa cuối cùng
dẫn vào sự minh triết của sự sống, thì tôi xin trả
lời rằng chìa khoá thần ấy không phải là sự suy tư,
như có lẽ có bạn đang chờ một triết gia như tôi trả
lời, mà là cầu nguyện. Cầu nguyện là bước cuối cùng
đem lại sự ên tĩnh cho ta, cho ta một tâm hồn trẻ nhỏ,
làm ta trở nên khách quan”
Ngày xưa
người ta cảm thấy cuộc sống của con người bị đe doạ
do những thế lục thên nhiên: mưa nắng, gió bão, lụt lội,
bệnh tật… và người ta chạy đến với các tôn giáo
thiên nhiên: thờ cây đa, ngọn núi, con sông…Các thế lực
đó, ngày nay, con người đã hiểu rõ hơn, đã chế ngự
được nhiều hơn, dù chẳng bao giờ chế ngự hoàn toàn
được. Nhưng ngày nay thì con người lại bị đe doạ nhiều
hơn bởi chính con người, bởi những trò án tâm của con
người.
“Lòng
người nham hiểm ai đo cho cùng”.
Và người
ta phải chạy đến tôn giáo như nền tảng căn bản
nhất của luân lý. Tuy nhiên điều đe doạ lớn nhất chính
là sự đe doạ do “cái phi lý” căn bản của đời sống
con người, của vận mệnh con người. Con người phải đối
đầu với những thắc mắc căn bản: tôi sống để làm
gì? Bao nhiêu công lao gom góp, xây dựng của tôi cuối cùng
sẽ là gì? Thực sự caí chết sẽ là một sự phi lý, một
thách đố muôn đới mà con người không thể vượt qua
được nếu không có tôn giáo, và nếu không được đảm
nhận một cách đúng đắn nhờ cầu nguyện.
Thực sự cầu
nguyện là trọng tâm, là linh hồn của moị tôn giáo, cầu
nguyện là trung tâm của lòng đạo, Auguste Subtier nói: “Không
có cầu nguyện trong lòng thì không phải là tôn giáo”.
Và văn hào Novalis nói: “Vai trò của cầu nguyện trong tôn
giáo cũng giống như vai trò của suy tư trong triết học”
2.
Cầu nguyện, vấn đề của con người:
Tờ báo
La Vie (số 144 tháng 10-1986) thử làm một thống
kê và đi đến kết quả của cuộc thăm
dò trong số 100 người như sau:
-11 người
cầu nguyện mỗi ngày
-17 người
cầu nguyện thường xuyên
-29 người
rất ít cầu nguyện
-42 người
không bao giờ cầu nguyện
Như vậy,
phải chăng việc cầu nguyện là một vấn đề
ngoại lệ? Hay ít ra đó là một vấn đề chỉ
hoàn toàn do việc luyện tập chứ để tự nhiên
thì người ta không cầu nguyện?
Thật ra thì
con số thống kê đó phản ánh tinh thần cảu một thời
đại, một thời đại ngắn ngủi trong cả quảng lịch
sử dài của nhân loại và người ta không thể tổng quát
hoá những con số này để tìm ra những gì thuộc về bản
chất của con người.
Tuy nhiên,
dù sao, chúng ta cũng phải trung thành với thời đại
của mình, và tuy cuộc điều tra ở Tây phương, nhưng chúng
ta cũng nhận ra rằng, ở trong Giáo hội Công giáo Việt
Nam, tuy vẫn được tiếng là “đạo đức”. “đạo đức”
vì Giáo hội bảo phải tin thì tin, bảo phải giữ thì giữ,
còn thực sự số người quan tâm đến vấn đề cầu nguyện
không phải là khá gì hơn.
Quả
thực, với đà tiến bộ của khoa học, một thứ
khoa học vô hồn, cùng với trào lưu tục hoá, đã
chi phối tinh thần của con người ngày hôm nay trên nhiều
vấn đề trong đó có cầu nguyện.
Nói chung,
con người thời nay đang bị dìm vào trong một nền văn
minh không có siêu việt, cuộc sống hằng ngày cảu con người
được bao bọc và ngập chìm trong công việc, trong tivi,
trong phim ảnh, phát thanh, báo chí, và người ta phải tranh
thủ để có giờ làm việc, phải tranh thủ tối đa để
đón nhận được những nguồn thông tin từ khắp nơi, những
nguồn thông tin cần thiết cho việc kiếm miếng ăn của
con người. Trong một bầu khí như thế, tất cả nổ lực
của con người xem ra chỉ để dành lấy một cuộc sống
vật chất khá hơn. Không ít, hay đúng hơn, đại đa số
thanh niên bây giờ nghi rằng đời mình chỉ thành tựu được
nếu cũng kiếm được một chiếc xe cup, những máy móc,
nhà cửa, xây dựng một gia đình tiện nghi xung túc…Và
cuộc đời kể như không thành công nếu như không kiếm
được những thứ đó. Khi người ta sống trong một thế
giới vắng bóng Chúa thì một quan tâm hàng đầu không phải
là tìm ra đâu là ý nghĩa đích thực của đời sống mình,
và đâu là những nhu cầu thiết yếu của con người mình,
mà là chạy theo những gì mà người khác vạch ra sẵn cho
mình. Hình như con người ngày nay tìm cách thực hiện một
chương trình của người khác, của xãhôị đã vạch sẵn
cho mình, cho dù nhiều khi tưởng đó là chương trình của
chính mình. Nó không phải là “chương trình sống” của
mình thực sự, không đáp ứng những nhu cầu thẩm sâu
của con “người mình, không khám phá ra sự mới mẻ của
niềm tin mỗi ngày.
Con người
bỏ quên cầu nguyện bởi vỉ chương trình để
trở thành một con người thành công, theo não trạng
ngày nay không có chỗ cho việc cầu nguyện, không
có những vấn đề cần đến cầu nguyện để giải
quyết, nên khi nói đến cầu nguyện họ ngạc nhiên như
người trên tơrì rơi xuống.
Tuy nhiên
nếu chúng ta được “đọc ngược” lại bản
điều tra đó, thí chúng ta sẽ thấy một điều
tích cực. Nếu như trong một xã hội tục hoá
như vậy, bình thường trước những vấn đề nan giải
của cuộc sống, đã có biết bao nhiêu phương pháp của
con người để giải quyết, từ những chuyên gia tâm lý,
cho đến những khoa học những ngành nghề trong xã hội:
cần tiền ư ? người ta tìm việc làm, cần tình yêu ư?
Người ta đi tìm người tình khác phái: cần cũng cố đời
sống gia đình tốt đẹp ư ? đã có biết bao sách vở hướng
dẫn: có những khó khăn tâm lý ư ? đã có những chuyên
gia tâm lý, trong một xã hội như thế mà vẫn có vài chụ
phần trăm cầu nguyện thì có thể chứng tỏ cho ta thấy
rằng cầu nguyện vẫn là một nhu cầu của cuộc sống,
vẫn là vấn đề của con người ngày nay, hay đúng hơn,
là vấn đề của con người mọi nơi, mọi thời đại.
3.
Thế nào là cầu nguyện:
Nói một
cách tổng quát, cầu nguyện là con người giao tiếp với
thần linh. Điều đó giả htiết phải có đầy đủ các
yếu tố: con người, sự giao tiếp, và Thần linh.
a – Thực
sự việc cầu nguyện giả thiết con người phải trở
về với chính mình, nhận ra con người thật cảu mình,
không che đậy, tránh né. Cầu nguyện không phải là bay
vào một thế giới viễn mông, huyền ảo, nhưng là tâm
trạng của một con người thật, con người cụ thể,với
tất cả cuộc sống, hoàn cảnh tâm tư khó khăn hy vọng
cuả mình, với cả quá khứ, hiện tại cũng như tương lai
của con người. Không lạ gì khi đau khổ người ta dễ
cầu nguyện, và lúc đó người ta dễ nhận ra con người
bất toàn, con người giới hạn con người bất lực của
mình. Đáng tiếc là khi cuộc sống êm ả người ta khó
nhận ra điều đó, và nhất là khi có một sự thành công
nào đó thì lại càng khó hơn nữa.
Mặt khác,
con người cũng cảm thấy những sự vật trần gian,
của cải vật chất hay danh vọng, tiếng tăm, không thể
bù đắp được nỗi khát vọng khôn nguôi ở
đáy sâu tâm hồn. Người ta cứ chạy đuổi mãi
để tìm thoả mãn bằng những sự vật trần gian, hết
thứ này đến thứ khác và chẳng bao giờ thấy thoả mãn
cả. Đến một lúc nào đó, nếu bình tâm suy xét, con người
sẽ thấy được nỗi khao khát tuyệt đối của lòng mình
mà không sự vật trần gian nào có thể đáp ứng lấp đầy
được. Đó không phải là một ảo tưởng cảu những người
dân bản khải mà thôi, nhưng là thực trạng của thân phận
con người, thuộc mọi thời đại, ở mọi nơi. Trong thẩm
sâu của con người có một khoảng trống không, không điều
gì có thể lấp đầy được. Khoảng trống đó thôi thúc
con người tìm kiếm và mở lòng con người để đón nhận.
Nhu cầu cầu nguyện là nhu cầu sẵn có, nằm sâu trong con
người, nó chỉ bị che lấp, bị quên lãng, nhưng không
thể mất đi.
b – Cầu
nguyện cùng giả thiết con người phải tin. Con người
tin Thượng đế. Đó là mối tương giao đầu tiên với
Thượng đế. Nhưng chỉ tin (theo nghĩa bình thường mà thôi
thì chưa thể đưa tới cầu nguyện). Có nhiều người vẫn
nói là mình tin nhưng mới chỉ tin có Thượng đế và Thượng
đế ở tận cõi “cao xanh” của Ngài, Ngài không đếm
xỉa gì tới con người. Niềm tin đó có thể mới chỉ
là kết quả của một thứ suy tư triết lý, suy ra Thượng
đế từ những nhận xét về thiên nhiên về con người.
Cầu nguyện
là một tương giao sống động trọn vẹn hơn sự
hiểu biết. Tin suông thì kể như chưa đi
đến đâu nên niềm tin đó phải tiến tới như một
thứ tương giao sống động cụ thể hơn là cậy dựa vào
Thượng đế. Chúng ta thấy nhiều tôn giáo gắn liền sự
cầu nguyện trên yếu tố "cậy dựa” này. Con người
cần đến Thượng đế mình, và thếlà con người chạy
đến với Ngài để dâng lễ vật khấn vái van lơn, xin
xỏ điều này điều kia…
Nhưng cao
điểm của mối tương giao đó là sự yêu mến.
Đứng trước thế giới siêu việt, con người cảm
thấy một sự cuốn hút, một sự hấp dẫn, một
sự say mê nữa. Thế giới thầnl linh xuất hiện
như một thế giơí kỳ ảo êm dịu, thanh
thoát, niềm vui, bình an hấp dẫn con người, nhất là trong
đó, con người gặp được một “AI KHÁC” và muốn hoà
nhập với Ngài. Đây là một thứ hấp lực cuả lòng yêu
mến. Trong nhiều tôn giáo, chúng ta thấy có những người
không dừng lại ở sự xin xỏ cho mình, nhưng còn muốn
thâm nhập vào thế giới thần linh, muốn hoà nhập con người
với Thượng đế, Thánh Phao lô nói: “Tôi sống nhưng không
phải tôi sống mà là chính Chúa sống trong tôi” Thánh
Augustino diễn tả nó một cách dễ hiểu như sau: “Lạy
Chúa, Chúa đã dựng nên con vì Chúa, nên linh hồn
con xao xuyến mãi cho tới khi nào nghỉ yên trong Chúa”.
Chỉ
ở mức độ tình yêu thì mối liên hệ
giữa con người và Thượng để mới trở nên thân
thêít, sâu xa và mới thực sự làm thoả mản
nỗi khát mong trong đáy lòng con người, vì thực sự điều
căn bản nhất của con người đó là tình yêu.
c – Cuối
cùng, cầu nguyện giả thiết vì Thượng đế phải là
một vị Thượng đế hướng tới con người. Nếu chỉ
dừng lại ở suy tư lý trí, người ta sẽ chỉ gặp được
một vị Thượng đế “khô khan” như một lý trí lạnh
lùng hay Ngài ở trên cõi trời của Ngài chẳng cần biết
đến ai, hoặc Ngài điều khiển vũ trụ vạn vật như một
định luật khoa học, hông hề biết từng cá nhân mà chỉ
dòm ngó cách chung chung vậy, hoặc Ngài không hề biết “xúc
động” với từng hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người
cụ thể. Vị Thượng đế đó là một nguyên lý lơn là
một ngôi vị. Người ta cũng có thể gặp gỡ một vị
Thiên Chúa sống động cụ thể hơn, nhưng lại mang đầy
những tâm tính của con người. Người ta nhân cách hoá
Thượng đế tưởng như Ngài cũng thực sự phản ứng tuỳ
theo một sự hứng khởi nào đó, tuỳ lúc vui, lúcbuồn,
lúc thích thú, lúc giận dỗi. Hình ảnh một vị Thượng
đế như vậy dễ làm cho mối tương giao của con người
với Ngài trở nên một tương giao vụ lợi, một sự tính
toán nhỏ nhen, hơn thiệt, may mắn hay xui xẻo. Chỉ có một
vị Thượng đế của tình yêu, yêu chỉ vì yêu , yêu mốt
cách nhưng không, không tính toán vụ lợi thì mới thực
sự làm cho việc cầu nguyện trở thành mối tương giao
tuyệt hảo. Thượng đế như vậy sẽ quan tâm, săn sóc
con người, can thiệp, trợ giúp con người. Và con người
thì hết lòng yêu mến, phó thác vào lòng bàn tay âu yếm
của Ngài như em bé tìm thấy sự bình an, ấm áp trong vòng
tay mẹ hiền.
“Như trẻ
thơ nép mình lòng mẹ
Trong con hồn
lặng lẽ an vui” (Tv 130)
Kết:
Cầu nguyện
không phải là một công việc nào đó thêm vào
cho cuộc sống con người. Cầu nguyện là đường lối căn
bản để con người sống thật, sống trọn vẹn con người
củamình. Thành thực trở về với con người mình, người
ta sẽ thấy đâu là những đường lối lừa dối con người
và đâu làcon đuờng dẫn đến sự sống thật. Con đường
đó đã được Kitô giáo hình thành, trình bày trong mối
tương giao tin-cậy-mến . Đó không phải là ba thái độ
khác nhau, nhưng chỉ là một tượng giao duy nhất, một
sự sống duy nhất, một thái độ duy nhất của con người
với Thiên Chúa. Đức tin đích thực không thể không có
Đức Tin và Đức Mến, Đức Cậy đích thực không thể
không có Đức Tin và Đức Mến, Đức Mến đích thực cũng
hiểu ngầm phải có Đức Tin và Đức Cậy. Từ những nhận
xét có tính cách tự nhiên như trên, hy vọng chúng ta sẽ
xác tín hơn tầm quan trọng của việc cầu nguyện trong
đời sống Kitô hữu, tha thiết thực hành việc cầu nguyện,
và cũng duyệt xét lại sự cầu nguyện của mình cho đúng
hơn.
***
“Cầu
nguyện là mở tâm hồn, mở trái tim và đôi bàn tay trước
mặt Thiên Chúa. Tôi còn bám víu vào nhiều thứ trong đời
sống của tôi và quyết nắm chặt lấy chúng trong tay: của
cải vật chất, tinh thần, công việc, địa vị của tôi,
bạn bè, nguyên tắc của tôi… Nếu tôi mở tay ra, nnững
“của cải” trên vẫn còn đó, có
lẽ không một vật nào rơi bớt đi, nhưng ít nhất đôi
bàn tay tôi đã mở. Thái độ đó là thái độ của người
cầu nguyện.” (Pierre Van Brieman) Phạm
Quang
|