Người châu Á truyền giáo cho người
Á châu
(Mc 16, 15-20)
Từ
ngày 5 đến ngày 8.1.1999, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã đến viếng thăm Ấn Độ. Cao
điểm của chuyến viếng thăm lần này là
nghi thức công bố Tông Huấn về “Giáo Hội
tại Á Châu”. Tông huấn này là một đúc
kết thành quả của Thượng Hội Đồng
Giám Mục họp tại Rôma hồi tháng 4.1999.
Chọn
Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn “Giáo
Hội tại Á Châu”, Đức Thánh Cha muốn
hướng các dân tộc ở Á Châu tới các dân tộc Á
Châu, tới đồng bào của mình tại lục địa
mênh mông rộng lớn này với hơn 3 tỷ
người, trong đó chỉ có 3% là người Công Giáo.
Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi
đến viếng thăm nhất hẳn phải là
Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa lục địa và
đặc biệt là Việt Nam. Thế nhưng cho
đến nay người ta vẫn cứ nại
đến lý do chính trị và quan hệ ngoại giao
để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến
viếng thăm Giáo Hội ở phần đất này.
Ấn
Độ là một quốc gia đang bị xâu xé vì tinh
thần bất khoan dung. Trong những năm
gần đây, người ta ước tính là đã có
gần 150 vụ tấn công nhắm vào nhân sự và các
cơ sở của Kitô Giáo. Nhiều mục sư và
linh mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị
bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá. Nhân
dịp Đức Thánh Cha viếng thăm Ấn
Độ, nhóm Ấn Giáo cực đoan đòi Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công Giáo
cũng như xin lỗi người Ấn Độ
về những phương pháp truyền giáo cho
người Ấn Độ trong quá khứ. Chính
bầu khí bất khoan dung ấy đã khiến Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi
để công bố Tông Huấn “Giáo Hội tại Á Châu”.
Trong
Thư Mục VuÏ Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam gởi toàn thể Dân Chuá vào khoá họp
thường niên từ 2-7/10/2000 tại Hà Nội, các Giám
Mục đã viết: “Thật là phấn khởi vô cùng khi
nghe lời Đức Gioan Phaolô II mở đầu Tông
Huấn: “Giáo Hội tại Á Châu ca lên những lời ngợi
khen Thiên Chúa cứu độ loài người” (GA. Số
1). “Đức Giêsu Kitô Đấng Cứu
Thế đã đến trần gian làm một người
Á Châu. Ngài đã sinh ra, đã chết và sống lại
tại Thánh Địa, một miền đất nhỏ
bé của miền Tây Á Châu. Thánh Địa
đã trở thành mảnh đất của Lời Hứa
niềm hy vọng cho toàn thể nhân loại” (GA. Số 1).
“Thế nhưng cho tới nay nhiều
người Á Châu vẫn chưa nhận biết Tin
Mừng để trở thành Kitô hữu” (Thư MV. Số 2).
“Năm nay,
Ngày Thế Giới Truyền Giáo mang một ý nghĩa phong
phú trong ánh sáng của Đại Năm Thánh, một năm
hồng ân, cử hành Mầu Nhiệm Cứu Độ từ
2000 năm, kể từ ngày sinh của Đức Giêsu Kitô
là vị Thừa Sai đầu tiên và vĩ đại
của Chúa Cha. Hội Thánh tiếp nối
sứ mạng thừa sai của Chúa Kitô trong thời gian,
qua hành động loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Tin
Mừng Chúa Kitô. Năm thánh 2000 là một thời gian
thuận tiện để toàn thể Hội Thánh, nhờ
Thánh Thần, có một hứng khởi thừa sai mới. Vì thế, Đức Thánh Cha mới gọi cách
đặc biệt và chân thành mọi người đã
được rửa tội hãy trở nên sứ giả
của Tin Mừng”. “Đây là một
sứ vụ liên quan đến mọi Kitô hữu, mọi
giáo phận và giáo xứ, mọi tổ chức và hiệp
hội của Hội Thánh” (RM. Số 2). “Trong những cách thế khác nhau, mọi
người được mời gọi tiếp tục
sứ vụ của Chúa Giêsu trong Hội Thánh”.
“Mỗi người được mời gọi cộng
tác tuỳ theo hoàn cảnh sống
của riêng mình. Trong mùa này, một mùa của ân
sủng và lòng thương xót, tôi đặc biệt ý thức
rằng tất cả sức lực của Hội Thánh
phải dành cho việc Phúc Âm Hoá Mới và Truyền Giáo. Không tín hữu nào, không tổ chức nào trong
Hội Thánh có thể trốn tránh nhiệm vụ tối
cao là loan báo Đức Kitô cho mọi người”. (x. RM số 3). Toàn thể sứ vụ
của Hội Thánh và đặc biệt việc truyền
giáo cần đến những tông đồ quyết tâm
kiên trì cho đến cùng, trung thành với sứ vụ
đã lãnh nhận, bằng cách nào bước đi trên cùng
con đường Đức Kitô đã đi qua, “con
đường nghèo khó, vâng phục, phục vụ và hy
sinh bản thân, cho cả đến chết…” (TG. Số 5). Trong công việc này, người Kitô hữu không
đơn độc. Chúa không bao giờ
bỏ rơi những ai Ngài kêu gọi cộng tác vào công
việc phục vụ của Ngài. “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời
dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ của Thầy… và hãy
biết rằng Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế” (X. Mt 28,18 -
20). Sự hiện diện mãi mãi của Chúa trong Hội
Thánh, nhất là trong Lời Chúa và các bí tích, là một
bảo đảm cho hiệu năng của công cuộc
truyền giáo.
Viễn
cảnh của Đại Năm Thánh mà chúng ta đang
cử hành, dẫn đưa chúng ta tới một sự
dấn thân truyền giáo hăng say hơn. Đã 2000 năm, kể từ khởi
sự công cuộc truyền giáo, vẫn còn lãnh vực
rộng lớn về địa dư, nhân văn và xã
hội, trong đó Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài
chưa thấm nhập vào, cách riêng đối với chúng
ta, người Á châu ở trên châu lục này. Làm
sao chúng ta có thể không nghe lời mời vang lên từ hoàn
cảnh này? Người Châu Á phải loan báo Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô cho người Á Châu, vì Chúa Giêsu là
người Á Châu. Tại sao người Á
Châu lại không nhận biết Ngài?
Thưa anh
chị em,
Cánh
đồng truyền giáo thật rộng lớn
và nhiều việc còn phải làm: vì thế sự
cộng tác của mọi người thật cần
thiết. Thật vậy, không ai nghèo nàn
đến nỗi không có gì để ban tặng. Trước tiên chúng ta tham dự vào hoạt
động truyền giáo bằng lời cầu nguyện,
bằng những hy sinh và dâng hiến những đau
khổ cho Thiên Chúa. Đó là loại
cộng tác đầu tiên mà mọi người có thể
trao tặng. Cũng quan trọng là
đừng bỏ qua sự trợ giúp kinh tế tài chánh
cần thiết cho sự sống còn của biết bao Giáo
Hội địa phương.
Đức
Thánh Cha kêu gọi chúng ta, khi cử hành Năm Thánh 2000, “toàn
thể Hội Thánh càng dấn bước vào một Mùa
Vọng truyền giáo mới, chúng ta phải gia tăng
nhiệt tình tông đồ để chuyển giao cho
người khác ánh sáng và niềm vui của đức tin… Thánh Thần của Thiên Chúa là sức mạnh
của chúng ta. Thánh Thần, Đấng biểu
lộ quyền năng trong sứ vụ của Đức
Giêsu khi Ngài được sai đi “loan báo Tin Mừng cho
kẻ nghèo khó… Và loan báo một năm hồng ân của
Chúa”, đã đổ tràn trong tâm hồn của mọi tín
hữu (X. Rm 5,5), giúp chúng ta trở nên
chứng nhân của Chúa”.
Thưa anh
chị em,
Truyền
giáo không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một
cuộc sống yêu thương. Đây chính là cốt lõi mà
Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu
người. Trong một xã hội mà Kitô Giáo
chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối
với Kitô hữu hiện nay là quyết tâm sống như
thế nào để rao giảng một thứ Đạo,
đó là “Đạo của tình thương”.
Mẹ
Têrêsa Calcutta, Ấn Độ, đã định
nghĩa về một nhà truyền giáo, đó là một
tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu đến độ không có
một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi
người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêsa
không những chỉ làm cho người ta biết và yêu
mến Chúa Giêesu bằng những lời nói suông, nhưng
mẹ nói về Chúa Giêsu, mẹ tỏ bày gương
mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu
thương phục vụ của mẹ. Do đó,
truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ
Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm
cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
|