Mẹ của sự khám phá
(Trích
trong ‘Mở ra những kho tàng’ - Charles E. Miller)
Phải
nói rằng nhu cầu là
mẹ của sự phát minh. Khi kỷ nguyên
kỹ nghệ hóa bắt đầu
làm cho nhu
cầu ánh sáng trở nên tốt hơn
là những cây nến hoặc
cây đèn dầu và Thomas Edison đã phát minh
ra bóng đèn
điện. Nhu cầu
là mẹ của sự phát minh. Trong Giáo Hội nhu cầu là
mẹ của sự khám phá,
đó là một sự khác nhau. Chúng ta có thí
dụ trong bài đọc một.
Khi
Môisê nhận thấy dân Israel
ở nơi hoang địa đã trở thành quá đông số,
quá sức chăm sóc của
ông, ông đã phàn nàn
với Chúa về gánh nặng
của mình. Chúa đã nói
với ông hãy thành lập
một hội đồng bô lão gồm có
bảy mươi bô lão để
giúp vào việc cai
trị. Trên họ, Thiên
Chúa sẽ gởi xuống tinh thần của Môisê, điều có nghĩa là Thiên
Chúa muốn chia sẻ quyền
lực và sức mạnh của Môisê cho họ. Bởi nhu cầu, Môisê đã khám
phá ra mình
không thể làm tất cả
mọi chuyện tự sức mình. Thiên Chúa muốn
cho những người khác chia sẻ sứ
vụ của ông trong việc
hướng dẫn và chăm lo cho dân.
Khổ thay, Giosuê đã
không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa và có
một lúc ông đã không
lớn đủ để sẵn lòng chia sẻ
tinh thần của Môisê với Eldad và Medad, là
những người
đã không hiện diện khi tinh thần
ấy ngự xuống trên những người khác. Một điều gì
đó quen thuộc đã xảy ra với
Chúa Giêsu và các tông
đồ. Chúa Giêsu đã chia
sẻ sứ vụ của Ngài với các tông đồ
nhưng khi Gioan thấy một người đàn ông không
phải là một trong nhóm Mười Hai mà lại
dùng danh Giêsu để xua đuổi quỷ, nên oán hận giống
như Giosuê đã làm. Tuy nhiên
Chúa Giêsu đã không bị
điều khiển
bởi ganh tỵ. Ngài đã vui mừng
vì sứ vụ của Ngài đã được
lan rộng.
Trong
Giáo Hội ngày hôm nay, nguyên
tắc của nhu cầu là
mẹ của sự khám phá
vẫn được
tiếp tục. Bởi vì các
phong trào bên trong Công
Đồng Vatican II, các
Giáo hoàng và các giám
mục đã luôn luôn nhớ
rằng, Thiên Chúa ngay từ
kỷ nguyên đầu đã ban cho Giáo Hội
một thừa tác vụ, được
biết như là phó tế.
Đó cũng là một
hình thức khám phá, bởi
nhu cầu của cộng đoàn. Trước Công Đồng
Vatican II chỉ một
mình vị linh mục mới được cho rước lễ, (ngay cả thầy sáu chủng viện cũng cần có phép
đặc biệt).
Sau Công Đồng, số những người Công giáo rước
lễ tăng lên rất nhiều,
Giáo Hội khám phá ra
rằng những giáo dân có
thể trở thành những thừa tác viên đặc biệt cho rước lễ và một chức
thừa tác đã được cho phép bởi
Thiên Chúa và làm hài
lòng Ngài. Trước Công Đồng Vatican II linh mục đã làm mọi chuyện
trong Thánh Lễ, gồm cả việc đọc Thánh Kinh, nhưng sau khi trở
lại với truyền thống, Giáo Hội mới khám phá ra rằng,
từ xa xưa những thừa tác giáo dân cũng
được biết
như là những người đọc sách thánh.
Khổ
thay, một số người trong chúng ta
giống Giosuê và Gioan, chúng
ta kháng cự lại sự khám phá. Chúng ta có thể
oán hận bởi vì người
đàn ông có vợ rồi
vẫn có thể được truyền chức phó tế. Chúng ta cũng bực
bội bác bỏ ý kiến về những thừa tác đặc biệt cho rước lễ và nhấn
mạnh rằng họ chỉ được quyền trao Thánh Thể
cho những trường hợp đặc biệt.
Một số người khác trong chúng
ta lại không thể chịu được những sự kiện, như là phụ nữ
đọc Thánh Kinh trong Thánh
Lễ.
Bởi vì nhu cầu
mang ánh sáng lan
tỏa trong Giáo Hội ngày hôm nay, ánh
sáng đã được chiếu sáng hơn phát
minh của Thomas
Edison. Đó cùng là ánh sáng
của Thánh Thể chiếu sáng trên chân
lý để cho Giáo Hội
thấy sáng tỏ hơn. Trong Thánh Vịnh
nơi bài đáp ca, chúng ta đón nhận
Thiên Chúa đã ban niềm vui cho trái
tim. Đó
là sự thật trao ban cho trái tim của chúng ta, để
chúng ta mở rộng cho sự thúc
đẩy của Thánh Thể trong Giáo Hội
ngày hôm nay. Không nên phàn
nàn về những thừa tác viên trong
phụng vụ, chúng ta phải
cám ơn Chúa và cầu
xin cho ân
sủng tuôn trào nơi Thánh
Thần của Người sẽ tiếp tục ban xuống trên Giáo Hội.
|