Tấm
Bánh
Theo tạp chí Times,
gần đây có nhiều vụ tự tử trong giới
doanh nghiệp Nhật Bản. Ông Saysi, 40 tuổi mạnh
khỏe, là quản lý của công ty bảo hiểm Taiho, ông
có đủ điều kiện để sống hạnh
phúc, an khang. Nhưng vào tháng 11-97 ông Saysi đã
nhảy lầu tự vẫn vì công ty mẹ là Yematri bị
phá sản. Cũng trong thời gian này, một quan
chức trong Bộ tài chánh và hai viên chức khác thuộc
công ty xã hội Nhật cũng kết liễu đời
mình khi bị kết án có dính líu
đến tham nhũng.
Theo thống kê
của cục cảnh sát Nhật Bản năm 1996 có
đến 23.000 người Nhật tự tử, gấp
hai lần số người chết vì tai nạn giao thông.
Trong đó 3025 người tự tử vì
thất bại về kinh tế. Các nhà tâm lý giải
thích cho những người mất việc rằng :
"Thất nghiệp là chuyện bình thường trong
cuộc sống. Hơn nữa, trong cuộc sống còn có
một cái gì khác hơn việc làm".
|||
Trong
cuộc hành trình tìm về quê trời, người tín
hữu Kitô còn phải tìm kiếm một điều gì khác
hơn là công việc, tiền của, danh vọng và
chức quyền.
Chúng ta luôn
được nhắc nhở : "Sống
giữa thế gian nhưng không thuộc về thế
gian" (x.Ga.15,19). Đừng gắn bó
với của cải chóng qua nhưng hãy tìm kiếm
những giá trị trường tồn. Đó chính là Đức Giêsu Kitô. Tấm bánh
được trao ban cho nhân loại :
"Bánh Ta sẽ ban, chính là Thịt Ta, để cho
thế gian được sống" (Ga.6,51).
Tấm
Bánh ấy không chỉ là bí tích Thánh Thể mà còn là Tấm
Bánh Lời Chúa. Hiến
chế về Phụng vụ quả quyết :
"Chúa Kitô hiện diện trong Lời của
Người, vì chính Người nói khi người ta
đọc Thánh Kinh trong Giáo hội" (Pv.7). Đức
Giêsu vẫn trao cho ta sức sống của Người
chính là Tấm Bánh Lời Chúa : "Người
ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn nhờ mọi
Lời do miệng Thiên Chúa phán ra" (Mt.4,4).
Hiến chế Tín lý
Mạc khải số 21 viết : "Giáo hội luôn
tôn kính Kinh Thánh như chính Thân Thể Chúa, nhất là trong
Phụng vụ Thánh, Giáo hội không ngừng lấy Bánh ban
Sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như
từ bàn tiệc Mình Chúa Kitô để ban phát cho các tín
hữu".
Mỗi
thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được
mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa,
trước khi cử hành bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai
đều là lương thực cần thiết cho
cuộc sống đời đời.
Mọi
tín hữu đều biết ích lợi vô song của Bí tích
Thánh thể, nhưng lại dễ dàng bỏ qua việc
rước lễ, chưa kể là thiếu chuẩn
bị, thiếu sốt sắng và thiếu thân tình.
Mọi
tín hữu đều biết Lời Chúa là cần
thiết, nhưng lại ít quan tâm suy niệm và sống
Lời Chúa.
Mahatma Gandhi, vị
thánh của dân tộc Ấn Độ có nói :
"Tôi sẵn sàng trở thành một Kitô hữu, nếu
tôi thấy những người Kitô hữu thực thi Tám
mối phúc thật".
|||
Lạy Đức
Giêsu, xin cho Lời Chúa luôn tỏa sáng lối
đường chúng con đi. Xin cho Mình Thánh Chúa là
lương thực hàng ngày cho chúng con. Xin dạy chúng con
cũng trở nên tấm bánh được bẻ ra cho anh
chị em. Xin giúp chúng con không chỉ lắng nghe mà còn
biết thực thi lời Chúa ; không
chỉ yêu mến, mà còn biết sống Lời Ngài ;
không chỉ tuyên xưng, mà còn biết thực hành
đức tin. Amen. (Thiên
Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 2.
Chỗ trong bàn tiệc
Một thương
gia giàu có kia sống chung với con trai và
con dâu mình. Người con trai rất thương
người nghèo, hay làm việc thiện nguyện trong
những tổ chức giúp đỡ người nghèo, và
cũng thường bố thí cho người nghèo. Ít lâu sau vợ chồng người con trai sinh
được đứa con đầu lòng. Ông thương gia rất mừng và định
tổ chức một bữa tiệc mừng rất
lớn.
Người con
hỏi người cha : "Cha
định sắp xếp chỗ ngồi cho khách thế
nào ? Có phải là để những người giàu
ngồi những bàn trên còn những người nghèo
ngồi những bàn gần cửa không ?"
Người Cha xác nhận đúng như
thế. Người con mới xin :
"Vì đây là bữa tiệc mừng đứa con
của con, nên xin Cha hãy chìu ý con mà đảo ngược
lại, nghĩa là hãy đề những người nghèo
ngồi bàn trên và những người giàu ngồi bàn
dưới". Người Cha đáp :
"Con ơi, khó mà thay đổi thế giới
được. Này nhé con hãy suy nghĩ thử xem : Những người nghèo đến
dự tiệc là để ăn, còn những người
giàu đến đây không phải để ăn mà
để được vinh dự. Vậy nếu ta
xếp những người nghèo ở bàn trên thì họ
phải cố gắng giữ tư thế cho đàng hoàng,
không dám ăn uống tự nhiên, cho nên dù có ăn họ
cũng ăn không ngon. Thà để họ ngồi các bàn
dưới thì họ sẽ thoải mái hơn và muốn ăn uống thế nào và bao nhiêu tuỳ
thích. Còn những người giàu đến đây thực
ra không cần ăn, vì họ đã ăn
uống đầy đủ ở nhà rồi. Xếp
họ ngồi các bàn dưới thì họ sẽ buồn ; cho nên xếp họ ngồi bàn
trên thì hợp ý họ hơn".
Nghe
người cha giải thích như vậy, người con
thấy hợp lý và không nài nỉ nữa.
Câu
chuyện trên không có ý dạy ta coi trọng người giàu
và coi nhẹ người nghèo, nhưng muốn giúp ta so sánh
với Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể là một bàn
tiệc. Nhưng
bàn tiệc này khác với những bàn tiệc của loài
người ở chỗ là mọi người đều
được mời, bất kể họ giàu hay nghèo.
Những chỗ ngồi trong bàn tiệc Thánh
Thể cũng bình đẳng như nhau, không ai cao mà
cũng không ai thấp. Tất cả chúng ta
đến dự tiệc Thánh Thể đều là
những người nghèo về mặt thiêng liêng, cho nên
đến đây tất cả chúng ta đều
được ăn uống no nê. Chẳng những thế tất cả chúng ta còn
được vinh dự vì được tham dự bàn
tiệc của Thiên Chúa. Và hơn nữa những
người cùng tham dự bàn tiệc Chúa sẽ liên kết
với nhau bằng sợi dây tình nghĩa, vì cùng chia xẻ
một thức ăn và một tình yêu
của Đức Giêsu Kitô. (Viết theo
Flor McCarthy)
3.
Chuyện minh họa
Mẹ
Têrêxa Calcutta có một quy luật là khi một thiếu
nữ nào đến xin nhập Dòng thì ngay ngày hôm sau sẽ
được gửi tới Nhà Lâm Chung (nơi chăm sóc
những người sắp chết).
Một
hôm, có một thiếu nữ đến xin nhập Dòng. Theo thông lệ, Mẹ
Têrêxa gửi chị này đến Nhà Lâm Chung. Mẹ
căn dặn : "Con đã thấy
các Linh mục chạm đến Mình Thánh Chúa một cách
cung kính và trìu mến thế nào. Bây giờ con
hãy đến Nhà Lâm Chung và cũng hãy làm như thế,
bởi vì Đức Giêsu trong Mình Thánh Chúa cũng là một
với Đức Giêsu đang ở trong những
người khốn khổ ấy".
Ba
giờ sau, thiếu nữ trở về với một
nụ cười rạng rỡ trên mặt. Cô trình với Mẹ Têrêxa :
"Thưa Mẹ, con đã được chạm
đến Mình Thánh Chúa suốt 3 giờ đồng
hồ". "Sao ? Con đã làm gì ?" Mẹ Têrêxa hỏi.
Cô đáp : "Khi con đến
đấy thì người ta cũng vừa mang đến
một ông bị rơi vào một cái cống và phải
nằm trong đó một thời gian. Mình mẩy ông rất
dơ bẩn và rất nhiều thương tích. Con đã
rửa cho ông và lau các vết thương của ông.
Đang lúc con làm thế, con biết là con đang chạm
chính Mình Thánh Đức Kitô".
* 4.
Lương thực thần linh
"Có
thực mới vực được đạo." Câu nói đó chắc chắn không áp
dụng với người giáo dân tên là Têrêxa Niu Man, là
người đã trải qua 36 năm trời không ăn
uống gì mà vẫn sống và giữ đạo sốt
sắng. Têrêxa sinh ngày 8 tháng 4, 1898, trong một gia đình
Công Giáo ngoan đạo miền Bắc Baveria của
nước Đức. Người dân trong làng Cổ Môn
Trường gồm gần 1,000 người, hầu
hết sống bằng nghề nông. Gia
đình của Têrêxa rất nghèo như phần đông các
gia đình trong làng. Học xong tiểu học, Têrêxa 14
tuổi và em là Maria 13 tuổi, đi làm thuê cho những
điền chủ ở các làng lân cận để có
tiền giúp đỡ cha mẹ. Công việc
nặng nhọc nhưng Têrêxa không ngại vì bản tính
vốn ưa thích việc đồng ruộng và chăm sóc
súc vật. Giống như mấy em gái
của nàng, Têrêxa cũng có những chàng trai để ý
ngắm nghía, nhưng nàng đã có mơ ước riêng.
Từ nhỏ nàng đã mơ ước là một nữ tu
truyền giáo ở Phi Châu và đã nhiều lần liên
lạc với các tu sĩ truyền giáo Dòng Biển
Đức. Nhưng Thiên Chúa đã an bài một hướng
truyền giáo khác cho Têrêxa.
Ngày 13 tháng 11, 1925,
Têrêxa bị đau ruột dư dữ dội, cơn
sốt cao khủng khiếp. Bác sĩ chăm
sóc cho nàng đề nghị một cuộc giải
phẫu tức khắc tại một bệnh viện
gần đó. Mẹ nàng khóc hết
nước mắt. Cha sở Ngô Biên
(Nobert) có mặt. Têrêxa xin cha Biên đặt thánh tích
của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu lên chỗ
đau và chính nàng cầu xin : "Lạy thánh nữ
Têrêxa Hài Đồng Giêsu, chỉ có Ngài mới có thể
chữa con lành bệnh, Ngài đã chữa lành con nhiều
lần rồi. Con không xin Ngài vì con nhưng vì mẹ
con."
Đáp
lại thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã cho nàng lập
tức khỏi bệnh. Cùng với mẹ nàng đến nhà thờ tạ
ơn Chúa trước sự ngỡ ngàng của mọi
người có mặt. Nhưng trước đó thánh
nhân đã nói cho Têrêxa Niu Man biết rằng :
Sự tuân phục và vui tươi chấp nhận đau
khổ của con làm ta rất hài lòng. Để
mọi người nhận thức đây là một
biến cố phi thường, con sẽ không cần
phải trải qua cuộc giải phẫu và hãy mau mau
tạ ơn Chúa. Con sẽ phải chịu đau
khổ nhiều hơn nữa, nhưng đừng sợ
điều gì, cả những đau khổ trong nội
tâm. Chỉ có cách này con mới cứu được các
linh hồn. Con phải từ bỏ mình nhiều hơn,
nhưng hãy luôn sống trong sạch, đơn sơ như hiện nay.
Quả
thật, không đầy bốn tháng sau, Têrêxa cảm
thấy mệt mỏi phải nằm giường cả
hơn tháng trời cho tới lễ Phục Sinh. Đêm thứ năm ngày 4 tháng 3 khi
nằm nghỉ trên giường, nàng chợt thấy trong
một thị kiến, Đức Giêsu đang quì cầu
nguyện ở vườn cây dầu và thấy các môn
đệ đang ngủ. Nàng cảm thấy
dấy lên nơi tâm hồn niềm thương cảm vô
biên đối với Đấng Cứu Chuộc. Cùng lúc Đức Giêsu nhìn chằm chặp vào nàng.
Nàng cảm thấy đau đớn tột độ
ở gần nơi trái tim đến
nỗi có thể chết được. Khi
tỉnh lại, Têrêxa thấy ở cạnh sườn bên
trái của nàng một vết thương, máu rỉ ra cho
đến ngày hôm sau. Nàng băng vết thương
lại để mọi người không thấy và nói
với em gái ở chung phòng với nàng là
nàng bị phỏng.
Một
tuần lễ sau cũng vào giờ đó Têrêxa lại
thấy Đức Giêsu trong vườn cây dầu, và sau
đó cảnh Ngài bị đánh bằng roi. Tuần lễ sau nữa,
nàng chứng kiến cảnh Chúa đội mão gai. Mỗi lần như thế, vết thương
cạnh sườn nàng chảy máu chan hoà đến ngày hôm
sau. Ngày thứ sáu 26 tháng 3, Têrêxa thấy
Chúa vác thánh giá và té ngã dưới sức nặng. Khi
tỉnh lại nàng thấy một vết thương
hiện lên nơi bàn tay trái của nàng,
không cách chi che giấu được. Khi
mẹ nàng hỏi tại sao bị thương như
thế, Têrêxa trả lời rằng vết thương
ấy đã xuất hiện cách tự nhiên. Trong
đêm thứ năm tuần thánh, tức ngày 1 tháng 4,
lần đầu tiên Têrêxa được mục kích
trọn đường thánh giá từ vườn cây
dầu tới đỉnh núi Sọ và cái chết của
Chúa trên thập giá.
Sau đó những
vết thương khác xuất hiện thêm trên tay mặt và hai chân của nàng. Cha
sở Ngô Biên được mời đến. Cha
vội đến nói với một linh mục khác và cha
đã ghi như sau trong nhật ký của cha :
" Têrêxa nằm đó như một vị tử
đạo, cặp mắt nàng đầy máu và hai giọt
máu chảy xuống má nàng. Gương mặt
nàng nhợt nhạt như một người chết.
Đến 3 giờ chiều, giờ chết
của Đấng Cứu Chuộc, nàng phải chịu
những cơn đau khủng khiếp đến chết
đi được. Sau đó, nàng
trở nên yên lặng hoàn toàn. Cha sở
bị đánh động mạnh trước biến
cố. Các dấu thánh ấy đồng
thời khiến cha mẹ và cả gia đình của Têrêxa
sầu khổ tột độ.
Ngày 4
tháng 4 là Chúa Nhật Phục Sinh, Têrêxa được
thấy Đấng Cứu Chuộc Phục Sinh. Nàng cảm thấy
khoẻ khoắn trong người để có thể ra
khỏi giường.
Ban đầu
gia đình Têrêxa nghi ngờ về những dấu lạ này
nên cố gắng chữa trị cho Têrêxa. Nhưng
càng chạy chữa, xức thuốc và băng bó, những
vết thương ấy càng lở loét và gây thêm đau
nhức. Têrêxa lấy làm lạ về
hiện tượng đó nên thỉnh ý thánh nữ Têrêxa Hài
Đồng Giêsu và được Ngài cho biết là không nên
chữa trị những vết thương đó. Chúng không làm độc và chỉ mở ra mỗi
thứ sáu.
Tháng 11 cùng năm
đó, giữa hai ngày 18 và 19, tức thứ năm và
thứ sáu, trong khi Têrêxa nhận được thị
kiến về Đức Giêsu chịu đội mão gai,
người ta thấy xuất hiện 3 vết máu trên
chiếc khăn màu trắng nàng đội trên đầu.
Khi cất khăn đi người ta thấy đầu
nàng ướt sũng máu và rất đau đớn. Tuần kế tiếp có 8 vết máu trên
đầu nàng. Những vết ấy
sẽ ở mãi trên đầu nàng.
Từ lễ Giáng
Sinh 1926, Têrêxa kinh nghiệm một sự thay đổi
đột ngột là ngưng hẳn việc ăn
uống. Hằng ngày sau khi rước lễ
nàng chỉ dùng vài giọt nước để giúp nàng
nuốt trôi Mình Thánh Chúa. Nhưng cha
sở Ngô Biên chứng thực rằng sau tháng 9, 1927, nàng
không cần những giọt nước này nữa.
Từ đó trở
đi, trong 36 năm liền, Têrêxa sống mà không cần ăn uống gì cả. Mình Thánh Chúa là
thức ăn duy nhất của nàng. Cha
Ngô Biên, người đã cho Têrêxa rước lễ
mỗi ngày cho đến khi nàng chết, đã ghi trong
nhật ký của ngài rằng Têrêxa thường nói với
mọi người là nàng sống nhờ vào Đấng
Cứu Chuộc. Và cha còn thêm rằng nơi Têrêxa thực
đã ứng nghiệm lời tuyên bố của
Đức Giêsu khi nói : "Thịt
Ta thật là của ăn. Máu Ta thật là
của uống."
Câu
chuyện vừa kể minh họa lời Đức Giêsu
nói trong Tin Mừng hôm nay là "Ai ăn thịt và uống
máu tôi thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong
người ấy" (c.56).
Câu chuyện cho thấy Chúa ở lại một cách lạ
lùng : (1) Chúa ở lại và tỏ lộ quyền
năng của Người nơi một giáo dân chỉ
cần chịu lễ mà thôi… không cần ăn uống gì
khác trong suốt thời gian 36 năm, mà vẫn mạnh
khỏe ! (2) Chúa còn ở lại và cho người
ấy dự phần vào cuộc thương khó của Chúa
cả nơi thân xác lẫn nơi nội tâm người
đó. (3) Mục tiêu nhắm tới là :
"Con đừng sợ đau khổ, kể cả
đau khổ nội tâm. Chỉ có cách đó,
con mới cứu được các linh hồn. Con
phải từ bỏ mình nhiều hơn, phải luôn
sống trong sạch và đơn sơ như hiện
nay" - mục tiêu ấy được tiết lộ
qua trung gian thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu trong một
thị kiến.
Nhân
vật trong câu chuyện có thực, vì ta biết rõ lý
lịch. Sự kiện mà
người đó chịu lễ và không ăn uống gì
khác suốt 36 năm, cũng như sự kiện về
năm dấu thánh nơi thân xác người đó với
những đau đớn người đó phải chịu
các ngày thứ sáu, những hiện tượng đó đã
được kiểm chứng đầy đủ do các
bác sĩ có thẩm quyền của Toà Thánh và của giáo phận
Ratisbon của Đức Quốc. Đồng thời,
vụ án phong chân phước cho bà Têrêxa
Niu Man đang được xúc tiến.
Chẳng
ai buộc người Kitô phải tin vào ơn mạc
khải riêng bao giờ. Nhưng mọi Kitô hữu đều phải bén
nhạy đối với những việc Chúa làm nơi
thọ tạo. (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)
|