LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN
TRỜI
LM. Carolô Hồ
Bặc Xái
A. Khám phá sứ điệp Lời Chúa hôm
nay
Các bài đọc của
Lễ hôm nay cho thấy những ơn phúc mà Chúa đã ban
cho Đức Mẹ :
-
Bài đọc I trích sách
Khải Huyền mô tả những nét huy hoàng của
Đức Mẹ : “Một người Phụ Nữ mình
khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và
đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”.
-
Bài đọc II trích thư
1 Côrintô ám chỉ Đức Mẹ là người
đầu tiên được hưởng ơn sự
sống trường sinh mà Chúa Giêsu phục sinh đã khơi
mào : “Cũng như mọi người vì liên đới
với Ađam mà phải chết, thì mọi người
nhờ liên đới với Đức Kitô cũng
được Thiên Chúa cho sống”.
-
Bài Tin Mừng cho chúng ta
biết lý do tại sao Đức Mẹ được
nhiều đặc ân như thế: đó là, như
lời Bà Êlisabét, “Em thật có phúc, vì đã tin…”
B. Tìm hiểu sứ điệp
1. Bài đọc I (Kh 11,9a; 12,1-6a.10ab)
Trong một thị
kiến, tác giả sách Khải huyền nhìn thấy
“Một người Phụ Nữ mình khoác mặt trời,
chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều
thiên mười hai ngôi sao”.
Ý nghĩa đầu tiên
của Người Phụ Nữ này là chính Giáo Hội.
Nhưng theo nghĩa áp dụng, Người
Phụ Nữ này cũng là Đức Maria, người
được Thiên Chúa yêu thương điểm trang
bằng muôn vàn đặc ân cao quý.
2. Bài
đọc II (1 Cr 15,20-27)
Thánh Phaolô nói với tín
hữu Côrintô về ơn sống lại :
- Ơn sống lại này do Đức Giêsu
Kitô khai mạc. Ngài là kẻ đầu tiên sống lại
từ cõi chết.
- Tiếp theo, tất
cả những ai liên kết với Đức Kitô thì
cũng được chia xẻ ơn sống lại
ấy.
Đức Maria là người liên kết
mật thiết nhất với Đức Giêsu Kitô cho nên
Người cũng là người đầu tiên
được chia xẻ ơn sống lại.
Vì tin như thế nên Giáo Hội công bố
tín điều Đức Mẹ lên trời.
3. Bài Tin
Mừng (Lc 1,39-56)
Đoạn Tin Mừng này
gồm 2 lời ca tụng: bà Êlisabét ca tụng Đức
Maria; và Đức Maria ca tụng Thiên Chúa. Cả hai lời
ca tụng đều nói đến những đặc ân
mà Đức Maria được hưởng:
a/ Bà Êlisabét ca tụng Đức Maria :
-
Maria người
được chúc phúc hơn tất cả mọi
người nữ
-
Maria là Thân Mẫu của
Đức Chúa
-
Sở dĩ Maria
được như thế là vì Maria đã tin vào Lời
Chúa.
b/ Đức Maria ca tụng Thiên Chúa :
-
Tuy Maria chỉ là một
nữ tì hèn mọn nhưng đã được Thiên Chúa
đoái thương nhìn tới
-
Đó là cách làm
thường xuyên từ xưa đến nay của Thiên
Chúa : Đời nọ đến đời kia, Chúa
hằng thương xót những ai kính sợ Ngài; Chúa
hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao những
người khiêm tốn.
C. Rao
giảng sứ điệp
I.
Gợi
ý giảng
1. Có phúc vì
đã tin
Bà Êlisabét
đã công nhận một sự thật: Đức Maria là
người có phúc hơn tất cả mọi phụ
nữ (câu 42). Thực ra Êlisabét nói chưa
đủ, phải nói là Đức Maria có phúc hơn
tất cả mọi người.
Được Thánh Thần soi sáng (câu 41),
bà Êlisabét còn biết do đâu mà Đức Maria có phúc như
thế: “Em thật có phúc vì đã tin” (câu 45a).
Tin là lý do để
được Thiên Chúa chúc phúc; tin là nguồn hạnh phúc.
Nhưng thế nào là “Tin” ?
Câu hỏi này sẽ tìm được câu trả lời
nơi cách sống của Đức Mẹ:
-
Trước
hết là không hồ nghi về những điều Chúa
hứa (câu 45b) : Qua miệng Thiên sứ,
Chúa đã hứa “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà
và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng
trên bà” (Lc 1,35). Những lời hứa này quá cao trọng
đến nỗi một thôn nữ tầm thường
như Maria khó mà tin được. Dù vậy Maria vẫn
tin. Chúa còn hứa rằng “Đối với Thiên Chúa, không
có gì là không thể làm được” (Lc 1,37).
Theo lý thuyết thì đúng là như vậy. Nhưng trên
thực tế, ít ai dám tin như Đức Maria, bởi vì
có nhiều việc người ta không tin là Thiên Chúa làm
được, cho nên người ta tự làm, hay nhờ
những kẻ khác làm giúp.
-
Tiếp
đến, vì không hồ nghi về những điều
Thiên Chúa hứa nên phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn
dắt. Đức Maria đã để Thiên Chúa dẫn
dắt vào đời sống hôn nhân, để Thiên Chúa cho
mình mang thai, để Thiên Chúa xử lý
tình huống rắc rối của một thiếu nữ
chưa về nhà chồng mà có thai… Tóm lại là để
cho ý Chúa luôn thành sự nơi cuộc đời mình (Lc 1,38
: “Xin hãy thành sự nơi tôi như lời Thiên sứ nói”)
Những điều Thiên Chúa
đã hứa với Đức Maria (Thánh Thần ngự
xuống; Đấng Tối cao rợp bóng) thì Ngài cũng
hứa với chúng ta. Lời Thiên Chúa khẳng định với
Đức Maria (“Không có gì mà Thiên Chúa không làm
được”) thì Ngài cũng khẳng định với
chúng ta. Nếu chúng ta cũng tin như Đức
Mẹ và cũng phó thác đời mình cho Thiên Chúa dẫn
dắt như Đức Mẹ thì chúng ta cũng sẽ
hạnh phúc như Đức Mẹ.
2. Có phúc vì
“nghèo”
Trong bài ca Magnificat, Đức Maria nhìn nhận
rằng mặc dù thân phận Người chỉ là một
“nữ tì hèn mọn” (câu 48a) nhưng sở dĩ
Người được “hết mọi đời khen
rằng diễm phúc” (câu 48b) chỉ vì Chúa quen ưu ái
kẻ nghèo hèn (câu 53).
Thế nào là nghèo ?
Trong Thánh
Kinh, người nghèo (anaw) là người không tìm chỗ
dựa nơi tiền bạc của cải, nơi tài trí
bản thân, nơi uy quyền người thế… mà
chỉ dựa hoàn toàn vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Mà Thiên Chúa rất hào hiệp, ai dựa vào Ngài thì
Ngài hết lòng bảo vệ, chở che và ban muôn hồng
phúc.
Do đó “nghèo” cũng là lý do để
được chúc phúc và cũng là nguồn hạnh phúc.
Bài ca Magnificat nhắc chúng ta
xét lại xem chỗ dựa của chúng ta là đâu.
II.
Để tham khảo thêm
1. Vinh quang
của Đức Mẹ
Đức Maria là người phàm duy nhất
được lên trời cả hồn và xác. Chẳng những thế,
Người còn được tôn làm Nữ vương
trời đất. Bởi đâu mà Đức Mẹ
được hưởng vinh quang cao cả như vậy ? Câu chuyện sau đây sẽ giúp
chúng ta hiểu được lý do.
Ở một vùng đất xa xôi hẻo
lánh kia có một bộ lạc sinh
sống. Năm đó trời hạn hán không
mưa nên mùa màng thất bát, cuộc sống khổ
cực. Dân bộ lạc tổ chức
một buổi lễ cầu mưa. Họ cầu
nguyện rằng : “Lạy thần linh,
xin chỉ cho chúng con biết chúng con đã phạm tội
gì để đáng bị trừng phạt như vậy.
Và xin dạy chúng con biết phải làm gì để có
mưa”. Họ cầu nguyện như thế
suốt 3 ngày nhưng trời vẫn không mưa xuống.
Khi đó những người
lớn tuổi rủ nhau lên đồi, vì họ nghĩ
rằng lên đó họ sẽ nghe được tiếng
trả lời của thần linh trong các luồng gió
thổi tới. Và quả
thực họ đã được nghe câu trả lời : Lý do khiến họ bị hạn
hán là vì họ quá ích kỷ : bấy lâu nay họ chỉ
biết khai thác đất đai mà không ban lại cho
đất cái gì để nuôi dưỡng đất gì cả.
Vậy, để khỏi bị trừng
phạt thì họ phải lấy những thứ quý giá
nhất trong nhà đem đốt đi thành tro rồi
rải xuống đất. Mọi người
cảm tạ thần linh đã chỉ bảo và hứa
sẽ làm theo. Nhưng khi
trở về nhà, nhìn những đồ vật quý giá thì
họ lấy làm tiếc. Vì thế, thay
vì những món đồ quý, họ chỉ lấy những
thứ xoàng xỉnh mà đốt. Dĩ
nhiên trời vẫn không mưa.
Trong bộ lạc có một cô bé tên là Miriam.
Cô có một con búp bê xinh xắn mà cô quý nhất trên
đời. Cô bé hiểu được lý do khiến
trời không mưa là vì người ta đã tiếc không
dám dâng hiến cho thần linh những thứ quý giá
nhất. Thế là cô mang con búp bê lên đồi, đốt
nó đi, vừa đốt vừa khóc. Đốt
xong, cô lấy tro rải lên mặt đất, rồi
ngủ thiếp đi. Khi cô tỉnh dậy thì cả
ngọn đồi đều mọc đầy hoa,
những cành hoa mọc lên từ đám tro của con búp bê
mà cô bé đã đốt. Việc làm của cô bé đã
khiến dân làng hiểu ý thần linh :
họ xấu hổ vì đã không dám hy sinh nghe lời
thần linh như cô bé Miriam. Thế là ai
nấy về nhà lấy tất cả những thứ quý
giá nhất đem đốt. Ngay sau
đó thì trời đổ mưa. Mọi
người tung hô cô bé Miriam như
một vị anh hùng đã cứu sống cả bộ
lạc.
Câu chuyện trên chỉ là
truyền thuyết và có thể là hư cấu. Nhưng nó giúp chúng ta hiểu
được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay. Cô bé
trong câu chuyện tên là Miriam, cũng giống tên Đức
Mẹ Maria; Cô bé Miriam được thần linh tôn vinh
bằng cách cho bông hoa trổ đầy trên ngọn
đồi nơi cô bé ngủ, cô cũng được dân
làng tôn vinh như vị cứu tinh của bộ lạc là
vì cô đã dám hy sinh món đồ chơi mà cô quý nhất trên
đời. Đức Maria cũng thế, Người
được tôn vinh làm Nữ vương trời
đất và được lên trời cả hồn và xác
là vì Mẹ đã hy sinh tất cả cho Chúa: Chúa muốn gì
Mẹ cũng vâng theo : (1) Mẹ muốn sống cuộc
đời đồng trinh, nhưng khi Thiên Chúa muốn
Mẹ thụ thai sinh hạ Chúa Giêsu, Mẹ đã thưa
“Xin Vâng”; (2) Chúa Giêsu là người con duy nhất của
Mẹ, là nguồn hạnh phúc của Mẹ trong gia đình
và là nơi nương tựa của Mẹ trong tuổi
già, nhưng vì Thiên Chúa muốn nên Mẹ cũng sẵn sàng
hy sinh để Chúa Giêsu ra đi rao giảng Tin Mừng và
chịu nạn chịu chết trên Thánh giá để chuộc
tội cho nhân loại. Đúng như lời bà Êlisabét nói
trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe hồi nãy, Đức
Mẹ có phúc hơn tất cả mọi người là vì
Đức Mẹ luôn làm theo ý Chúa, luôn
“xin vâng” với Chúa.
Gương Đức mẹ dạy chúng ta
2 điều : (1) Chúng ta thường nghĩ
rằng hạnh phúc là do “được”, có
được những gì mình mong muốn. Đúng
vậy. Nhưng hạnh phúc cũng còn do hy sinh, do dám cho đi, cho đi những gì mình
tha thiết nhất. Có khi hạnh phúc bởi cho đi còn
sâu đậm và cao cả hơn hạnh phúc do nhận
được; (2) Đặc biệt trong tương quan
giữa chúng ta với Chúa, chúng ta thường chỉ xin
Chúa ban cho chúng ta, khi thì xin điều này khi thì xin
điều khác, chỉ xin và xin, chỉ nhận và nhận.
Ít khi chúng ta cho Chúa, hy sinh vì Chúa. Thực ra Chúa không cần chúng ta cho Ngài
điều gì cả. Những thứ mà
chúng ta cho Chúa cũng chẳng đáng gì cả.
Nhưng những thứ nhỏ bé mà chúng ta cho Chúa như
thế chứng tỏ tấm lòng của chúng ta đối
với Chúa. Và để đáp lại, Chúa sẽ ban
lại cho ta gấp bội.
Noi gương Đức Mẹ Maria, chúng
ta hãy tập lắng nghe tiếng Chúa và tập
thường xuyên thưa lại với Chúa 2 tiếng “Xin
Vâng” (Viết theo Flor Mc Carthy).
2. Đức Mẹ lên trời và Thánh
Truyền
Các sách Tân Ước nói rất ít về
Đức Mẹ, lần cuối cùng Người
được nói đến là khi Người ở
giữa các tông đồ trong nhà Tiệc Ly để đón
Chúa Thánh Thần hiện xuống. Sau đó Sách Thánh không nói gì về
Người nữa. Nhưng Thánh
Truyền thì có nói.
Theo Sách Thánh, trước khi tắt thở,
Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ lại cho thánh Gioan
chăm sóc. Thánh Truyền cho biết thêm là sau đó thánh
Gioan đưa Người về ở chung
với mình trong một ngôi nhà ở Êphêxô. Rồi
cũng như mọi người khác, Đức Mẹ
ngày càng già yếu đi. Nhưng không như mọi
người khác, Đức Mẹ được
hưởng đặc ân vô nhiễm
nguyên tội nên đương nhiên cũng không phải
chịu những hậu quả của nguyên tội, tức
là không phải bệnh hoạn và không phải chết.
Vậy thì Người rời khỏi cuộc sống
trần gian này như thế nào ? Cũng
theo thánh truyền, từ khi Chúa Giêsu lên
trời, lòng Đức Mẹ lúc nào cũng thương
nhớ con mình và rất ước ao được
gặp lại con. Những niềm thương nỗi
nhớ đó khiến một ngày kia
Người lịm đi. Thánh Gioan tưởng là
Người đã chết nên cũng lo an
táng như mọi người khác, rồi cho người
đi báo tin cho các tông đồ. Khi các tông đồ
trở về, họ mở mồ Đức Mẹ ra mong
được thấy mặt Người lần chót,
nhưng khi mở ra thì ngôi mồ trống không
: khi đó các ông tin là Chúa đã rước
Người lên trời.
Năm 1950, Đức Giáo Hoàng Piô XII đã
tuyên bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên
Trời : “Đức Maria, Mẹ vô nhiễm của Thiên
Chúa, trọn đời đồng trinh, vào cuối
cuốc sống trần gian đã được đưa
lên chốn vinh quang trên trời cả hồn lẫn xác”.
Khi tuyên bố tín điều
này, Đức Giáo Hoàng đã chuẩn nhận những
dữ kiện Thánh Kinh và Truyền thống sống
động của Giáo Hội trải qua nhiều thế
kỷ.
Chúng ta nên hiểu cho đúng
kiểu nói “được đưa lên chốn vinh quang
trên trời”. Đây
là kiểu nói của loài người, bị giới
hạn trong các phạm trù không gian và thời gian. Khi loài người muốn diễn đạt
những điều siêu nhiên (vượt khung không gian và
thời gian) thì ngôn ngữ loài người trở thành
bất lực. Loài người chỉ
biết tạm mượn những cách diễn tả
của phạm trù không gian và thời gian ấy, nhưng ta
phải hiểu cao hơn và xa hơn. Trong ngôn ngữ
loài người chúng ta, “trời” chỉ cái gì tốt
đẹp cao cả, còn “đất” chỉ cái gì xấu xa
thấp hèn; “lên” chỉ sự tiến tới một tình trạng
tốt hơn, còn “xuống” chỉ sự thụt lùi
về một tình trạng xấu hơn.
Thành ra nói Đức Mẹ lên
trời là nói đến sự thay đổi tình trạng
sống của Đức Mẹ, tốt đẹp
hơn, hạnh phúc hơn, vinh quang hơn. Cho nên hôm nay Giáo Hội mừng Đức
Mẹ lên trời là mừng tất cả những hạnh
phúc và vinh dự của Người :
Người là Mẹ sinh ra Chúa Cứu Thế, Người
được đặc ân vô nhiễm nguyên tội,
Người được Thiên Chúa đặt làm Nữ
Vương vũ trụ, tắt một lời,
Người là Đấng hạnh phúc và vinh quang vô cùng...
Do đâu mà Đức Mẹ
được diễm phúc như vậy ?
Trong bài Tin Mừng hôm nay chính Đức Mẹ cho chúng ta
biết được lý do : Bài ca
Magnificat của Đức Mẹ được các nhà Thánh
Kinh gọi bằng một tên khác nữa là “Bài ca của
người nghèo”. Trong Thánh Kinh, anaw Yahweh, người nghèo
của Yavê, là người không có tiền bạc cho nên không
cậy dựa vào tiền bạc, có người cũng có
tiền nhưng không dựa vào tiền mà chỉ dựa vào
Chúa; người nghèo của Yavê còn là người không có quyền
thế địa vị cho nên không dựa vào quyền
thế và địa vị, có người cũng có
quyền thế địa vị nhưng họ không
dựa vào đó mà chỉ dựa vào Chúa thôi; người
nghèo của Yavê còn là người không cậy dựa vào tài
năng, học thức, sức mạnh... Tóm
lại người nghèo của Thiên Chúa hoàn toàn không cậy
dựa vào bất cứ thứ gì khác, chỉ cậy
dựa vào một mình Thiên Chúa mà thôi. Và đây là
chỗ dựa vững chắc và an toàn
nhất, vì thế chính Thiên Chúa nâng họ lên, chính Thiên Chúa
ban cho họ muôn của cải đầy dư, Chúa làm cho
họ biết bao điều trọng đại...
Thực ra Đức Maria đâu có gì hơn chúng ta, thâm chí
còn thua kém chúng ta nữa : một thiếu
nữ quê mùa, yếu ớt, ít học, nghèo nàn sinh
trưởng tại làng Nazarét nhỏ bé vô danh... Chỉ vì Đức Mẹ khiêm tốn, biết
chọn đúng Thiên Chúa làm chỗ dựa duy nhất cho
đời mình nên Thiên Chúa đã làm tất cả những
điều cao cả tốt đẹp cho Người.
Như lời Người đã hát :
“Đấng toàn năng đã làm cho tôi bao điều cao
cả... Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng
cao những người khiêm nhượng... Kẻ đói
nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có
đuổi về bàn tay trắng...”.
3. Cảm
nghiệm ơn Chúa
Nếu có
ai hỏi : Làm thế nào để tiến
bộ trên đường đạo đức, thay
đổi nếp sống cũ, biết dấn thân
mến Chúa yêu người hơn ? Tôi xin thưa
: điều quan trọng nhất khởi đầu
cho một nếp sống mới là : cảm nghiệm được
tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã
nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương,
ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong
muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu.
Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp
ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta
đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên
lời "xin vâng", Chúa Thánh Thần xuống tràn
đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ
mở rộng tâm hồn đón nhận và để
mặc Người hướng dẫn cuộc đòi
mình. Từ đây, cuộc đời
Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi.
Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn
trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng
trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại
tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác
động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ
Tác động thứ nhất
: sự vội vã. Vội vã đây không
phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự
vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình
hăng hái. Cảm nghiệm được
tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn,
tha thiết muốn đáp trả. Nếp
sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi.
Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm
trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ
giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng
hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ
một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép
mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã
mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra
đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh
Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai :
tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm được
tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn
đầy niềm cảm mến biết ơn.
Niềm tri ân cảm tạ đầy
ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của
Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn
bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song
song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân
cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã
biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái
kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ
lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối
với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến
Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh : Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu.
Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. Lỡi tôi tựa bút rung vạn điệu.
Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Êlisabét chào, Đức Mẹ đã
xuất khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi
tuyệt diệu.
Tác động thứ ba :
thái độ chia sẻ. Tình yêu Thiên Chúa bao la
đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn
đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và
lớn lao đã thúc đẩy
Đức Mẹ mau mắn lên đường đi
thăm bà Êlisabét. Đức Mẹ không
đến để khoe khoang, nhưng để chia
sẻ. Nhờ Đức Mẹ
đến mà bà Êlisabét và thánh Gioan Baotixita được
chúc phúc. Đức Mẹ cũng
đến để chúc mừng bà chị họ đã
được Chúa đoái thương. Tâm hồn
được Chúa chiếm hữu đã khiến
Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp
thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những
người chung quanh.
Tác động thứ bốn
: dấn thân phục vụ. Niềm tri ân
cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự
sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi
miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay.
Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ
nhanh chóng biến thành hành động. Sự
đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy ngời
được yêu dấn thân phục vụ trong những
việc làm cụ thể. Chính vì thế
Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại
phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời
một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương
Đức Mẹ : xin Chúa Thánh Thần
đến tràn ngập tâm hồn ta như Ngài đã
đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm
nghiệm được những ơn lành Chúa ban và giúp ta
mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết
ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần
soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan
tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và
để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
LM. Carolô Hồ Bặc Xái
|