ĐỨC
THÁNH CHA BÊNÊĐICTÔ XVI
VÀ NHỮNG
DẤU NHẤN MỤC VỤ CHO GIÁO HỘI TẠI VIỆT
NAM
Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam đã thực hiện
chuyến viếng thăm ad limina từ ngày 22-06 đến
4-07-2009. Đỉnh cao của chuyến viếng thăm là
cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI vào
ngày 27-06-2009. Trong mỗi cuộc gặp gỡ với
từng Hội Đồng Giám Mục trên thế giới,
Đức Thánh Cha đều ban huấn từ cho các giám
mục với những nội dung thần học và trọng
tâm mục vụ khác nhau, tùy theo hoàn cảnh của từng
Giáo Hội địa phương. Huấn từ này có
tầm quan trọng đặc biệt vì trong tư cách là
vị chủ chăn của Giáo Hội phổ quát,
huấn từ của Đức Thánh Cha chính là những
định hướng mà mỗi Giáo Hội địa
phương phải quan tâm khai triển trong đời
sống. Chắc chắn mọi thành phần trong Giáo
Hội Việt Nam sẽ lắng nghe, suy nghĩ, trao
đổi và khai triển nhiều khía cạnh trong huấn
từ quan trọng của Đức Thánh Cha. Ở đây
chỉ xin gợi lên một vài dấu nhấn mục
vụ như bước đầu cho những suy nghĩ
và ứng dụng sâu sắc hơn.
Huấn từ
của Đức Thánh Cha có một cấu trúc rõ ràng và
mạch lạc. Sau lời chào mừng, cảm ơn và bày
tỏ sự quý mến đối với Giáo Hội và
người dân Việt Nam, Đức Thánh Cha nhấn mạnh
những lãnh vực cần phải quan tâm : linh mục và tu
sĩ ; giáo dân, cách riêng đời sống gia đình và các
bạn trẻ ; sự hợp tác trong lòng Giáo Hội
Việt Nam ; Giáo Hội và xã hội. Cuối cùng là lời
thăm hỏi và chúc lành gửi đến tất cả cộng
đồng Dân Chúa tại Việt Nam. Trong mỗi lãnh
vực, ngài đều đưa ra những chæ dẫn
cụ thể cho đường hướng mục
vụ của Giáo Hội Việt Nam.
Đời sống thánh thiện
của các linh mục và tu sĩ
Chuyến
viếng thăm ad limina của HĐGMVN trùng hợp với
thời điểm Giáo Hội toàn cầu bắt đầu
bước vào Năm Linh Mục (19-06-2009 – 19-06-2010). Phải
chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Trong
tầm nhìn của đức tin, chính Chúa quan phòng đã
sắp đặt sự trùng hợp này để Giáo
Hội Việt Nam ý thức về ân huệ lớn lao Thiên
Chúa ban cho mình : một Giáo Hội phong phú ơn gọi linh
mục và tu sĩ trong bối cảnh ơn gọi ấy
dường như ngày càng vơi cạn trên nhiều
miền đất của thế giới. Ý thức ấy
dẫn Giáo Hội Việt Nam đến tâm tình tạ
ơn Chúa, đồng thời phải tích cực góp
phần để gìn giữ, bảo vệ và phát triển
kho tàng Chúa ban cho.
Theo ý
hướng đó, rất cần quan tâm đến lời
nhắn nhủ của Đức Thánh Cha gửi
đến các linh mục và tu sĩ Việt Nam. Ngài nhấn
mạnh đến đời sống nội tâm và sự
thánh thiện của linh mục, tu sĩ, theo gương
cha sở họ Ars. Đây sẽ là điều đáng
ngạc nhiên với những ai chỉ nhìn vị giáo hoàng
hiện tại như bậc trí thức thượng
thặng của thế giới. Thật vậy,
Đức Bênêđictô XVI không chỉ là nhà thần học
lỗi lạc trong Giáo Hội Công giáo, nhưng ngài còn
được nhìn nhận như một trong những nhà
tư tưởng uyên bác có tầm ảnh hưởng
lớn trên toàn thế giới. Thế nhưng vị giáo
hoàng uyên bác ấy lại nhấn mạnh đến
đời sống nội tâm và sự thánh thiện,
lại đề cao mẫu gương của cha thánh Gioan
Maria Vianney, vị linh mục hơi đuối về
mặt học vấn! Bởi lẽ hơn ai hết, ngài
thấy rõ những giới hạn và cả mối hiểm
nguy khi nghiên cứu thần học mà thiếu vắng
đời sống nội tâm. Khi đó, thần học
chỉ còn là một ngành nghiên cứu khoa học thuần
túy chứ không có khả năng khơi mạch sự sống
đức tin, nhà thần học chỉ còn là chuyên viên nói
về Thiên Chúa như một đối tượng khách
quan chứ không có khả năng nói với Chúa như
một chủ thể trong tương giao sống
động. Tương tự như thế, khi thiếu
vắng đời sống nội tâm, các linh mục và tu
sĩ có nguy cơ trở thành những công chức chứ
không là mục tử, những giáo viên chứ không là ngôn
sứ, những thầy dạy thay vì là chứng nhân, và
sẽ không còn khả năng thông truyền sự sống
đức tin cho người khác.
Hiểu như
thế, việc đào sâu đời sống nội tâm và
nỗ lực sống thánh thiện phải là mối quan
tâm hàng đầu của các linh mục tu sĩ Việt Nam
trong giai đoạn tới. Trách nhiệm này trước
hết là của từng cá nhân linh mục, tu sĩ,
đồng thời các giám mục cũng phải xem đây
là mối ưu tư hàng đầu của mình. Vì thế,
Đức Thánh Cha kêu gọi các giám mục phải quan tâm
lo lắng cho các linh mục, phải hiểu biết các linh
mục trong giáo phận mình cho thấu đáo, phải giúp
các linh mục chu toàn việc thường huấn.
Người Công giáo tốt và
người công dân tốt
Đức Thánh
Cha tâm đắc với Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam khi các giám mục đề cao vai trò của
ơn gọi giáo dân trong đời sống gia đình,
để gia đình thực sự trở thành
trường dạy đức tin và đức mến
đối với Thiên Chúa, trở thành cái nôi của
những giá trị nhân văn và đức tính nhân bản. Đồng
thời, ngài nhấn mạnh đến vai trò chứng tá
của người tín hữu giáo dân giữa lòng xã hội,
để xã hội nhìn nhận rằng là người công
giáo tốt cũng chính là người công dân tốt.
Bằng cách nào
người giáo dân công giáo có thể chu toàn sứ mạng đó? Người
giáo dân được mời gọi chu toàn sứ mạng
đó không phải bằng việc rao giảng giáo huấn
của Giáo Hội nhưng bằng chính đời sống
cụ thể hằng ngày của mình, một đời
sống xây dựng trên cái kiềng ba chân là bác ái, liêm chính và
quý trọng ích chung. Xem ra Đức Thánh Cha theo dõi tình hình
của Việt Nam khá sát, vì đây chính là những trọng
điểm của xã hội Việt Nam hôm nay. Khi Việt
Nam bước sâu vào tiến trình toàn cầu hóa thì một
mặt, có những phát triển về kinh tế nhưng
mặt khác, lại có những tác động tiêu cực
về đạo đức và tinh thần. Chủ nghĩa
cá nhân len lỏi vào trong cách suy nghĩ và lối sống
của người dân, khiến cho “tình làng nghĩa xóm”
thưở xưa đang dần tan biến. Sự gian
dối lan tràn trong cuộc sống hằng ngày, kể
cả trong những môi trường đáng trân trọng
nhất là giáo dục và y tế, làm cho mối tương
quan giữa người với người mất đi
sự trong sáng cần thiết. Chủ nghĩa
hưởng thụ khiến cho mỗi người chỉ
biết đến quyền lợi riêng của mình, của
gia đình và phe nhóm của mình, mà không màng gì đến ích
lợi chung của tập thể xã hội. Trong tình hình
đó, bác ái, liêm chính và quý trọng ích chung quả là
những đòi hỏi khẩn thiết cho việc xây
dựng và phát triển đất nước cách vững
bền. Cũng bằng cách sống những giá trị
đó, người công giáo có thể minh chứng cho mọi
người thấy rằng, nếu mỗi người
công giáo thực sự là công giáo thì điều đó không
những không gây tai hại gì cho đất nước và
dân tộc; trái lại, còn làm cho đất nước
được phồn thịnh và tốt đẹp
hơn.
Để
đạt được mục đích này, Đức
Thánh Cha yêu cầu các giám mục phải chú tâm đến
việc đào tạo người giáo dân. Điều
đặc biệt là ngài không chỉ nói đến đào
tạo về đức tin mà ngài còn nói đến cả
việc nâng cao trình độ văn hoá của người
tín hữu, bởi lẽ khi trình độ văn hoá
được nâng cao, người giáo dân sẽ có thể
hiểu biết đức tin cách sâu xa hơn và phục
vụ Giáo Hội cũng như xã hội cách hiệu
quả hơn. Trong thực tế, dù có nhiều giới
hạn, Giáo Hội tại Việt Nam đã quan tâm
đến việc đào tạo người tín hữu
giáo dân dưới nhiều hình thức, từ cấp giáo
xứ đến cấp giáo phận. Chắc chắn
sự nhắc nhở của Đức Thánh Cha sẽ thúc
đẩy các vị có trách nhiệm trong Giáo Hội quan tâm
hơn nữa đến đòi hỏi này.
Giáo Hội Chúa Kitô giữa dân
của mình
Khi nói
đến mối tương quan giữa Giáo Hội và xã
hội tại Việt Nam, Đức Thánh Cha nhắc
lại định hướng của Thư Chung 1980 : “Giáo Hội
Chúa Kitô giữa dân của mình” (l’Eglise du Christ au milieu de son
Peuple). Nếu xét theo từ ngữ, cụm từ
mà Đức Thánh Cha dùng có chút thay đổi so với
nguyên bản của Thư Chung 1980 vì Thư Chung nói
đến việc “sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”. Thiết
nghĩ sự thay đổi này không tương phản mà
chỉ muốn làm cho rõ hơn nội dung của Thư
Chung 1980. Cụm từ “Giáo Hội Chúa Kitô giữa dân
của mình” làm nổi bật chiều kích Giáo Hội. Chiều
kích ấy trước hết hàm nghĩa cộng đoàn
chứ không chỉ là cá nhân. Vấn đề không chỉ
là mỗi cá nhân sống Phúc âm nhưng là tất cả Dân Chúa
tại Việt Nam cùng sống Phúc âm trong tư cách là
những chi thể của cùng một Thân Thể mầu
nhiệm. Thứ đến, chiều kích Giáo Hội còn hàm
nghĩa Dân Chúa tại Việt Nam sống Phúc âm trong mối
hiệp thông với Giáo Hội phổ quát. Sẽ không có chuyện
tự cho rằng mình sống Phúc âm nhưng lại không
hiệp thông với Giáo Hội phổ quát, cụ thể là
với Đấng kế vị thánh Phêrô. Cũng sẽ
không có chuyện tự hào mình sống Phúc âm nhưng lại
là thứ Phúc âm theo cách giải thích riêng của mình, bởi
vì Phúc âm chỉ được sống và công bố cách
chính thực trong mối hiệp thông với Huấn
quyền của Giáo Hội. Đây là một trong những
điều kiện căn bản để Giáo Hội
tại Việt Nam thực sự là Giáo Hội của Chúa
Kitô.
Sứ mạng
đặc thù của Giáo Hội là loan báo Tin Mừng Chúa
Kitô. Tin Mừng đó là Tin Mừng Nước Trời,
vương quốc của tình yêu và chân lý; do đó, khi loan
báo Tin Mừng – bằng lời rao giảng và bằng
đời sống – Giáo Hội góp phần không những vào
việc phát triển những giá trị nhân văn và tinh
thần của người dân Việt Nam, mà còn góp phần
cho sự phát triển vững bền của đất
nước nữa, nhất là trong thời điểm
hiện nay, khi những giá trị đạo đức và
truyền thống của dân tộc bị đe doạ
trước làn sóng của chủ nghĩa thực dụng và
hưởng thụ.
Khi loan báo Tin
Mừng cho người dân Việt, Giáo Hội ý thức rõ
ràng mối liên hệ với đời sống xã hội
cũng như với cộng đồng chính trị, vì người
dân Việt là những con người cụ thể đang
sống trong môi trường xã hội cụ thể,
dưới sự điều hành của một Chính
quyền cụ thể. Nói về mối liên hệ này,
Đức Thánh Cha khẳng định rõ ràng : Giáo Hội
không hề có ý định thay thế Chính quyền dân
sự và đòi hỏi quyền lực, nhưng chỉ
muốn cộng tác nhằm xây dựng một xã hội công
bằng, liên đới và bình đẳng. Ngài cũng xác tín
rằng sự cộng tác lành mạnh như thế là
điều có thể thực hiện được, trên
nền tảng đối thoại và tôn trọng lẫn
nhau. Hiểu như thế, tôn giáo chân chính không bao giờ là
mối nguy hiểm cho dân tộc và đất nước,
vì tôn giáo chỉ nhằm mục đích giúp mỗi cá nhân thánh
hoá bản thân, đồng thời qua những tổ
chức và hoạt động của mình, tôn giáo phục
vụ con người cách quảng đại và vô vị
lợi.
Kết Luận
Vào cuối
năm nay, 24.11.2009, Giáo Hội Việt Nam sẽ chính
thức khai mạc Năm Thánh 2010, kỷ niệm 50 năm
thiết lập hàng giáo phẩm tại Việt Nam. Chắc
chắn những chỉ dẫn mục vụ của
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI sẽ được
cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam quan tâm
đặc biệt, để cùng nhau sống chiều kích
mầu nhiệm của Giáo Hội, phát huy sự hiệp
thông trong Giáo Hội, và hăng say thi hành sứ mạng loan
báo Tin Mừng Nước Trời cho đồng bào của
mình trên quê hương Việt Nam thân yêu.
Rôma, Lễ Thánh
Phêrô và Phaolô Tông đồ 2009,
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Ban Thư ký HĐGMVN
|