ĐẸP THAY! (CN HIỆN XUỐNG – GA 20, 19-23)
Đọc đi rồi đọc lại bài Tin Mừng Chúa Nhật Hiện Xuống, tôi vẫn chưa cảm nhận được niềm vui nào rõ rệt. Sau khi thinh lặng rồi cầu nguyện, tôi cũng cảm nghiệm được những điều đã khiến tôi vỡ òa lên vì hạnh phúc sướng vui.
1 - Điều đầu tiên tôi rung động thật sự, qua đoạn tường thuật ngắn trên, chính thánh Gioan Tông Đồ đã nói về những yếu kém của mình và của các bạn đồng môn với mình. Ngài nói rằng chính các ngài chứ không ai khác đã sợ:
- “Vì các ông sợ người Do Thái” (Ga 20, 19). Chắc hẳn rằng những môn đệ trung thành theo Chúa cũng sẽ bị bắt bớ, hành quyết và rồi lại bị treo lên cây gỗ như Thầy Giêsu của mình. Một sự thật về những con người hèn kém trước khi được Chúa Giêsu Phục Sinh thổi hơi vào. - Khi “các cửa đều đóng kín’, bỗng Đấng Phục Sinh hiện ra bằng xương bằng thịt. “Các ông kinh hồn bạt vía tường là ma” (Lc 24, 37). Nỗi sợ thứ 2 khi các ngài chưa từng bao giờ chứng kiến hiện tượng sự hiện diện kỳ diệu của Đấng quyền năng. - Chưa hết, các ngài còn sợ rồi đây khi Thầy xuất hiện sẽ khiển trách về sự bất trung thành đã bỏ Thầy trốn biệt tăm, trong lúc Người bị hoạn nạn.
2 – Cảm nghiệm thứ hai mà tôi mừng rỡ là thánh sử đã nói lên được quyền năng của Đấng Phục Sinh. Quyền năng tha thứ, quyền năng yêu thương và quyền năng ban sự sống mới. Tất cả đều tóm gọn trong vài lời hàm chứa thâm sâu và được lập lại liên tiếp 2 lần rằng, đồng thời đã cho các môn đệ đáng thương của mình xem tay và cạnh sườn: “Bình an cho anh em!” (Ga 20, 20 và 21).
3 – Ngoài hai cảm nghiệm trên, trong trái tim của Đấng Phục Sinh, tôi còn nhận ra nỗi khát khao cháy bỏng tận sâu của Người. Đó chính là lệnh truyền hãy ra đi loan báo Tin Mừng bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vì nếu các ngài thực hiện điều này qua đời sống cầu nguyện liên lỉ, thì những người đang sống trong bóng tối sự dữ sẽ nhận được ơn tha thứ sau khi họ đã nhận ra bản thân mình yếu đuối và lỗi phạm trước tình yêu cao vời của Thiên Chúa là Cha. Còn như, nếu các ngài vẫn mãi sợ hãi và rồi không dám thi hành sứ mạng loan báo Tin Mừng bình an, thì chắc chắn những người kia vẫn mãi bị cầm buộc, bị tiếp tục sống trong đời sống tối tăm cũ xưa. Đẹp thay!
Nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, “Đấng mà Thiên Chúa đã ban cho những ai vâng lời Người” (Cv 5, 32), thánh Phêrô đã mạnh dạn ra đi ngay ngày lễ Ngũ Tuần và sau khi rao giảng, như sách Công Vụ đã ghi nhận rằng: “Nghe thế họ đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các Tông Đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì? Ông Phêrô đáp: “Anh em hãy sám hối và mỗi người hãy chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần” ... Và hôm ấy có khoảng ba ngàn người theo đạo” (Cv 2, 37-41).
Khi tìm hiểu thư 2 Côrinto của thánh Phaolô, Đức Ông Linh Tiến Khải đã phân tích tư tưởng của thánh nhân nhằm nói lên sứ vụ loan báo không có sức mạnh của Thần Khí Đức Kitô. Đức Ông Thắng viết: “Điều thánh Phaolô muốn nhắm phê bình ở đây là tâm trí chai lì của nhóm thừa sai chống đối ngài (2Cr 3,14-16). Họ đóng kín tâm trí trong kiểu đọc hiểu Kinh Thánh Cựu ước nên không có khả năng nhìn nhận rằng chỉ có Chúa Kitô là chìa khóa duy nhất đích thật giúp giải thích mọi sự mà thôi. Và trong lãnh vực lòng tin chỉ có hoạt động của Chúa Thánh Thần mới có thể lấy tấm khăn che mờ ý nghĩa Kinh Thánh đó đi. Nhóm thừa sai kitô gốc do thái duy trì kiểu đọc hiểu Kinh Thánh cổ điển đóng khung, mà họ đã thừa kế được từ truyền thống Do thái giáo. Muốn thoát khỏi ách nô lệ đó họ cần phải hoán cải tâm lòng và để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn.”
Như vậy, sứ vụ loan báo Tin Mừng thật sự khẩn thiết đến như thế nào! Tuy nhiên, trong thế giới hiện nay, sứ vụ cao cả ấy đã được biến đổi đa dạng ra sao? Ngoài sứ vụ Giáo Hội rao giảng một sự cứu độ “bề trong”, “thiêng liêng”, không “ăn chung” gì tới cuộc sống cụ thể. Ta thấy lời phê bình đó không phải bao giờ cũng đúng? Mới đây, trong bài “Sứ mạng cứu độ của Hội Thánh”, Lm Nguyễn Hồng Giáo đã kết luận: “Trên đây, tôi nhìn sứ vụ loan báo hồng ân cứu độ ở mức sâu xa hay cao siêu của nó, mà tôi nghĩ bài “Bước đi trong Thần Khí” muốn nhắm tới, cho dù có một vài kiểu nói có thể được hiểu là liên quan tới những hoàn cảnh thực tế. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi cho rằng ơn cứu độ không liên quan gì tới xã hội, tới các công cuộc “trần thế” của con người. Đã đến lúc tôi phải trích dẫn một đoạn của Hồng Y Ratzinger về điểm này: “Ta cũng phải nhìn nhận rằng Kitô giáo đã luôn toả ra một tình nhân ái dạt dào. Những gì Kitô giáo đã mang vào lịch sử thật đáng kể […] Đúng thế, chỉ qua Kitô giáo mà hệ thống chăm sóc bệnh nhân, cưu mang người yếu kém và cả một hệ thống tổ chức từ thiện đã hình thành. Cũng nhờ Kitô giáo, mới phát sinh sự tôn trọng con người trong mọi hoàn cảnh. Một sự kiện lịch sử đáng ghi nhận: sau khi chấp nhận Kitô giáo, việc đầu tiên hoàng đế Contantinô thấy phải thi hành, là cải tổ luật lệ, chọn ngày chủ nhật làm ngày nghỉ cho mọi người và nô lệ được hưởng một số quyền lợi (…)” (sđd, 217). Nhờ những cảm nghiệm rất đơn sơ và rất thực từ Lời Chúa trong Tân Ước cho đến những giáo huấn của Giáo Hội, tôi cũng nhận thấy bản thân mình còn nhiều nỗi sợ hãi, khi chia sẻ sự đồng cảm với những người bệnh nghèo. Một khi biết nhận ra con người thực nội tâm của mình, lúc đó, ta mới lắng nghe được lời mời gọi của thánh Giacôbê khi ngài nói: “Anh em hãy hạ mình xuống trước mặt Chúa và Người sẽ cất nhấc anh em lên” (Gc 4, 10). Lạy Chúa Thánh Thần, Xin ban ơn sức mạnh cùng ơn khôn ngoan để chúng con biết vượt lên những lo âu sợ sệt khi chung quanh con đang còn nhiều người bệnh nghèo đang cần được sẻ chia. Lạy Chúa, xin ngự đến! Amen.
Chúa Nhật Hiện Xuống, 31/05/2009 Phêrô Vũ văn Quí CVK64,
|