CỘng Ðoàn HỘi Thánh Chúa Kitô
Cv 3,13-15.17-19; 1Ga. 2,1-5a; Lc 24,35-48
Gm. Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm

Phúc Âm: Lc 24, 35-48
"Họ
nhận ra được Người khi họ nhận
bánh do Người bẻ trao cho".
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các
việc đã xảy ra dọc đường và hai ông
đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế
nào.
Mọi
người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra
đứng giữa họ và phán: "Bình an
cho các con! Thầy đây, đừng
sợ". Nhưng mọi người
bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại
phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ
như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính
Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương
thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong,
Người đưa tay chân cho họ
xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ
ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho
Người một mẩu cá nướng và một
tảng mật ong. Người ăn
trước mặt các ông và đưa phần còn lại
cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời
Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với
các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi
lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong
sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi
Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người
lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ
phải chịu thương khó, và ngày thứ ba
Người sẽ từ cõi chết sống lại.
Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự
thống hối và sự ăn năn
để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu
từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm
chứng nhân về những điều ấy".
Suy NiỆm:
Cũng như các bài Kinh Thánh của Chúa nhật
trước, các bài đọc hôm nay nói với chúng ta
về Hội Thánh. Chúng ta thử đổi
kiểu tìm hiểu. Thay vì đi từ
ngoài vào trong lòng Hội Thánh như đã làm Chúa nhật
trước, hôm nay chúng ta đi từ trong ra ngoài, nhưng
tạm dùng phương pháp thời gian.
Bài Tin Mừng không gợi lên sự việc trong chính
ngày Chúa sống lại hay sao? Theo cách Luca kể thì
Ðức Yêsu đã hiện ra với các môn đệ chính
chiều ngày Người phục sinh. Còn
bài sách Công vụ các Tông đồ cho chúng ta nghe lại
lời của thánh Phêrô sau khi chữa lành một
người què, tức là một thời gian sau khi Chúa Thánh
Thần hiện xuống. Cuối cùng bài thư 1 Yoan là tác phẩm của nhiều
chục năm sau.
Tuy nhiên dù trải rộng ra trên thời gian Giáo
huấn của Hội thánh vẫn trước sau như
một và vẫn muốn nói với chúng ta ngày hôm nay sứ
điệp ngàn đời nhưng luôn luôn mới mẻ
của Chúa.
Ðàng
khác, tuy kể lại những sự việc xem ra cách quãng
nhau khá dài trong thời gian, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay
đều đã được soạn hầu như cùng
vào một thời đại; và nhất là đều
nhằm một mục đích trình bày cho tín hữu về
đời sống của Hội Thánh, dưới
những khía cạnh làm cho nhau nên phong phú.
1. Một Cộng Ðoàn
Khởi Sự Tin
Bài Tin
Mừng theo thánh Luca cho chúng ta thấy hai
môn đệ Emmaus vừa về tới Yêrusalem vào chiều
tối ngày Chúa nhật phục sinh. Họ
đến nơi các môn đồ của Chúa đang
hội họp. Theo văn mạch, không
những chỉ có các tông đồ nhưng cũng có
cả những người khác. Họ
đang bàn tán về việc Chúa đã hiện ra với các
phụ nữ, và nhất là với Phêrô. Câu chuyện
của hai môn đệ đi Emmaus không "ăn
khách" bao nhiêu, bởi vì đối với mọi
người điều đáng kể là Chúa đã hiện
ra với Phêrô. Và như vậy có thể nói là
việc Người sống lại đã được
chính thức công nhận. Cộng đoàn
tín hữu luôn hợp nhất với thủ lãnh của mình
trong đức tin.
Họ đang bàn chuyện thì Chúa Yêsu hiện
đến đứng giữa họ. Luca không nói
rõ như Yoan rằng khi ấy cửa nhà nơi họ
hội họp đang đóng kỹ vì sợ người
Dothái. Nhưng Luca lại nhấn
mạnh đến phản ứng của họ khi
thấy Chúa thình lình đứng giữa họ. "Kinh hoàng khiếp đảm họ
tưởng mình thấy ma". Không
hiểu đã có bao giờ nhiều người thấy ma
cùng một lúc không? Rõ ràng ở đây họ đã
phản ứng như đêm nào đang ở trên thuyền
gặp gió ngược, họ thấy một "bóng
ma" đi trên nước. Họ kêu rú lên nhưng đã
được trấn tĩnh: "Thầy đây
đừng sợ" (Mc 6,47-50). Chúng ta
có thể xích hai câu chuyện lại với nhau để
nhìn thấy khi Ðức Yêsu hiện ra ở trên biển sóng
gió, Người đã muốn mạc khải sự
phục sinh và thần tính của Người; đang khi
hôm nay hiện ra với họ trong thân xác phục sinh,
Người muốn đem lại cho họ niềm vui
phấn khởi và tin tưởng trong cuộc đời
đầy sóng gió.
Lời
Người trách họ: tại sao hoảng hốt và có
những suy nghĩ như thế ở trong lòng, khiến
chúng ta lại nhớ tới những lời trách
tương tự. Người đã nói với họ khi
đi chung thuyền với họ mà gặp bão táp (Mt 8,26). Hôm ấy họ thì vất
vả chèo chống, còn Người thì nằm ngủ.
Họ đến lay Người
dậy. Người trách họ hầu
giống như hôm nay, nhưng rồi đã ra lệnh cho
sóng gió lặng yên. Hôm nay, dùng những lời
tương tự để trách họ, phải chăng
Người không muốn gợi lại chuyện cũ
để ngầm ý nói rằng: Người đã ngủ
dậy, tức là đã sống lại; cộng đoàn
của Người không còn gì phải sợ sóng gió trần
gian nữa. Việc Người phục sinh
là chiến thắng vĩnh viễn.
Nhưng có lẽ họ chưa bắt
được hết ý tưởng của Người. Họ
vẫn còn tưởng đây là ma, tức là "linh
hồn" Người đã chết nay hiện về
với họ. Có lẽ họ còn nhớ câu truyện
vua Saolê thấy hồn tiên tri Samuel hiện lên (1S 28,8). Và như vậy họ càng
sợ hơn nữa, vì vua Saolê ngày trước khi thấy
Samuel hiện về đã khiếp sợ vì mặc cảm
tội lỗi. Họ không có một chút
mặc cảm này sao khi họ đã bỏ rơi
Người trong mầu nhiệm tử nạn?
Nhưng không, Người không phải là Samuel. Người bảo
họ sờ vào thân xác mang thương tích của
Người để biết rõ đây không phải là
"linh hồn" Người hiện về, nhưng là
thân xác Người đã sống lại. Và
những thương tích này không những không gây mặc
cảm tội lỗi cho họ trái lại còn đem
đến cho họ niềm vui cứu độ. Và
để giúp họ tin hoàn toàn và dứt khoát, Người
còn ăn một chút cá nướng
trước mặt họ để họ thấy đây
là thân xác đã sống lại thật chứ không phải
linh hồn hiện về hay là ma. Có thể
nói sự thật trước mắt đã xua đuổi
hết mọi hồ nghi khỏi lòng môn đồ. Họ là những người có phúc vì
được xem thấy. Nhưng
họ còn là những người phải đi công bố
Tin Mừng Phục sinh cho những người không
được phúc xem thấy. Chính cho những
người này và để giúp các tông đồ diễn
tả được niềm tin của mình, Chúa Yêsu đã
bắt đầu dùng Thánh Kinh để giải thích cho
họ về mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh
cứu thế của Người. Làm công
việc đó xong, việc hiện ra của Người
mới hoàn tất.
Từ nay cộng đoàn dân Chúa có thể tiến
bước vững vàng trên biển trần gian đầy
sóng gió. Chúa
Phục sinh đã ban cho họ những dấu hiệu
về việc Người sống lại và đã dùng Thánh
Kinh để củng cố những dấu hiệu
ấy. Từ nay Hội Thánh vừa có các bí tích là những
dấu hiệu ban ơn cứu độ vừa có Lời
Chúa ghi trong Kinh Thánh. Với những "sản
nghiệp" phong phú ấy và dưới sự lãnh
đạo của Phêrô đã được Chúa sống
lại hiện ra, cộng đoàn dân Chúa không những
đã được lòng tin vững vàng mà còn có khả
năng rao truyền và làm chứng niềm tin ấy
nữa... Những điều này, chúng ta
sẽ thấy trong hai bài đọc sau.
2. Một Cộng Ðoàn Rao
Giảng Ðức Tin
Ai cũng thấy Phêrô và Yoan hôm nay không còn như hôm
Chúa nhật Phục sinh nữa. Họ đã được
đầy Thánh Thần. Không những tay
họ đã làm cho một người què đi
được; nhưng nhất là thần trí họ đã
đổi mới hoàn toàn. Họ tin chắc chắn và
dạn dĩ rao giảng việc Ðức Yêsu đã sống
lại. Chính để làm chứng việc này, và để
tỏ ra Người đã được tôn vinh, con
người mà thiên hạ đã đóng đinh vào Thập
giá, mà Thiên Chúa đã cho người què được
khỏi tật khi tin vào Danh Ðức Yêsu Kitô.
Phép lạ này là một dấu hiệu. Thiên Chúa dùng tay các tông đồ để đến nói
với mọi người. Nhưng
người ta có thể hiểu dấu hiệu không
đúng. Người ta có thể nghĩ "
bởi quyền phép riêng, hoặc lòng đạo
đức riêng" của các tông đồ mà người
kia được khỏi tật. Phêrô đã giải thích:
người ấy được khỏi vì Danh Ðức
Yêsu, vì Thiên Chúa muốn làm chứng rằng Người mà
họ đã đóng đinh vào thập giá, nay đã sống
lại. Và như thế là đúng như Kinh
Thánh đã nói.
Do
đó ở đây cũng như ở trong bài Tin Mừng,
người ta đã được nhìn thấy dấu hiệu
rồi được dẫn giải về Kinh Thánh,
để người ta tin Chúa Yêsu Phục sinh. Các bí tích và lời Chúa phải giữ vai trò
trọng yếu trong lời rao giảng đức tin
của Hội Thánh. Và nếu chúng ta hiểu bí tích có
thể có một ý nghĩa rộng rãi hơn số 7 bí tích
Hội Thánh vẫn cử hành, thì đi đôi với
việc công bố Lời Chúa, Hội Thánh phải có
những dấu hiệu thánh thiện giúp người ta
lãnh hội Lời này. Và người tông
đồ hiểu ngay các dấu hiệu nói đây có
thể là chính thái độ, tư cách đạo
đức mà mình phải có để khơi nguồn
đức tin trong lòng người nghe.
Ðồng thời người tông đồ cũng
còn phải làm như Ðức Yêsu trong bài Tin Mừng và như
Phêrô trong bài sách Công vụ. Cả hai khi đem lại cho người
ta những dấu hiệu và lời giảng về sự
phục sinh, đã phải xua đuổi và làm tan biến
những trở lực ở nơi họ đối
với đức tin. Ðức Yêsu đã
phải trách môn đồ về những tâm tư nghi
ngờ. Phêrô phải mạnh bạo
lột trần phần trách nhiệm của mỗi
người trong việc giết đấng "khơi
nguồn sự sống". Ở
đây, chúng ta thấy người khẳng định rõ
rệt và cụ thể hơn hôm người giảng
lần đầu tiên khi người ta tuốn đến
xem dấu hiệu Lửa Thánh Thần hiện xuống.
Hôm ấy, người nói họ đã dùng tay kẻ vô
đạo đóng đinh Ðức Yêsu vào Thập giá (2,23). Hôm nay người dám nói rằng: trong khi
Philatô xét là phải tha Ngài, thì họ đã từ chối
đấng Thánh và xin ân xá cho một tên sát nhân, rồi
đã giết Ðấng là nguồn sự sống.
Nhưng đó cũng chỉ là vì "vô tri". Nay thấy Thiên Chúa đã
mở mắt cho mọi người khi tôn vinh Ðức Yêsu,
tức là cho Người sống lại từ cõi chết,
thì họ phải "hồi đầu" trở
lại để được tẩy xóa tội lỗi
và được sống. Lúc ấy họ
sẽ được phúc hơn cả người què
vừa được chữa khỏi, vì mọi chúc lành
Thiên Chúa đã hứa cho Abraham và dòng dõi ông, từ nay sẽ
là kỷ phần của họ. Và như vậy,
Ðức Yêsu thật là vị tiên tri mà Môsê đã nói sẽ
đến và sẽ giống như mình, vì Người
sẽ giải phóng dân khỏi tội lỗi và sự
chết để khơi nguồn và trở thành sự
sống mới cho họ.
Không chắc các thính giả Dothái hôm ấy đã
bắt được hết ý tưởng của Phêrô. Nhưng hiển nhiên khi
viết lại bài giảng này, sách Công vụ các Tông
đồ muốn cho chúng ta lĩnh hội đầy
đủ lời rao giảng Tin Mừng của Hội
Thánh. Phêrô lại làm cho các thính giả của
người việc mà chính Ðức Yêsu đã làm cho các môn
đồ khi hiện ra với họ. Dùng dấu
hiệu và lời nói Chúa và Hội Thánh loan truyền cho chúng
ta mầu nhiệm phục sinh như là công việc cứu
độ của Thiên Chúa để chúng ta từ bỏ
tội lỗi, "hồi đầu" trở lại
với Ðấng là nguồn sống giải cứu chúng ta
khỏi chết muôn đời, để khi giữ
lời Người, chúng ta được hưởng
mọi Lời Hứa tốt lành của Thiên Chúa.
Có
lẽ muốn cho chúng ta chú ý đến điểm
cuối cùng này mà phụng vụ đã đọc cho chúng ta
nghe bài thư Yoan hôm nay.
3. Một Cộng Ðoàn
Sống Ðức Tin
Xét theo thời gian của những việc
xảy ra, bức thư này nói đến nếp sống
khá lâu sau ngày Chúa nhật Phục sinh và tuần lễ Thánh
Thần hiện xuống. Thánh Yoan viết thư
cho con chiên của người để khuyên họ
đừng phạm tội. Vì sao vậy?
Có lẽ vì bấy giờ không còn phải là
lúc mới tin đạo nữa. Buổi
đầu, người ta sốt sắng và sống thánh
thiện. Nhưng dần dần bắt
đầu có sự nguội lạnh; rồi chống
trả cám dỗ yếu đi, có nhiều tín hữu
bắt đầu phạm tội.
Sự kiện này đặt ra một thắc
mắc. Những kẻ đã tái sinh mà bây giờ phạm
tội lại thì sẽ như thế nào? Họ không còn là "thánh hữu"; ít nhất
cũng không thể bảo ho còn là tín hữu thánh thiện,
vì họ đã phạm tội lại. Ơn
cứu chuộc họ đã lãnh nhận một lần
rồi; còn cách nào cứu họ được nữa
không?
Chắc chắn hồi đó Hội Thánh chưa có
đủ thời giờ và kinh nghiệm để khám phá
ra bí tích cáo giải nơi kho tàng mạc khải. Thánh Yoan
cũng chưa hiểu điều đó. Ðứng
trước sự kiện có những tín hữu sa ngã
lại, người chỉ biết đưa ra hai
điều khuyên: một là cố gắng đừng
phạm tội ; và hai là tội nhân hãy
biết rằng chỉ có lòng tin vào Ðức Yêsu cứu
thế là được tha tội mà thôi.
Người lấy hết tình "cha con" mà
khuyên điều thứ nhất. Người
gọi tín hữu là "các con thơ bé" để nói
lên tình thắm thiết của một người cha,
một người mẹ, hầu khẩn khoản nài xin
họ đừng phạm tội. Và
muốn như vậy, họ phải giữ các lệnh
truyền của Chúa. Chắc chắn người
muốn nói đến giới răn bác ái huynh đệ vì
theo các tác phẩm của người,
Chúa chỉ để lại cho chúng ta một lệnh
truyền mà thôi, đó là chúng ta hãy yêu mến nhau. Ai giữ điều này là kẻ thật sự
giữ đạo; bằng không nó là kẻ nói láo, vì lẽ
nếu không yêu người anh em mà nó thấy thì làm sao có
thể yêu Chúa là đấng vô hình được. Ðàng khác, nơi kẻ có lòng yêu thương anh em,
lòng mến của Thiên Chúa mới nên trọn
được. Bởi vì Thiên Chúa là tình
yêu. Người ở trong lòng ai, thì
kẻ ấy phải yêu thương tha nhân. Không yêu anh em là không có tình yêu ở trong lòng,
khiến lòng mến của Thiên Chúa chưa làm sao nên
trọn ở nơi kẻ ấy. Vậy như Thiên
Chúa đã cứu chuộc chúng ta khi ban tình yêu cứu
độ của Người cho chúng ta, thì chúng ta cũng
phải duy trì tình yêu ấy để được ở
mãi trong ơn cứu độ.
Nhưng nếu trót phạm tội thì sao?
Thánh Yoan không dứt khoát trả lời. Người chỉ nêu
lên một chân lý rất đúng để người ta
trông cậy: hãy tin vào Ðức Yêsu Kitô là Ðấng công chính;
Người là hy lễ đền tội của cả
thế gian; Người là Ðấng bầu chữa cho
tội nhân nơi Thiên Chúa Cha. Phải đợi nhiều
năm sau nữa, Hội Thánh mới tìm thấy rõ ràng trong
kho tàng mạc khải có nguồn nước tha tội
phong phú là bí tích cáo giải.
Chúng ta ngày nay sống ở thời đại mà
mầu nhiệm cứu chuộc đã được
triển khai toàn diện. Nhưng dù đã biết bí
tích cáo giải và nhiều kho tàng mạc khải khác,
đời sống đạo đức của chúng ta
vẫn phải có những nét như ở thời các tông
đồ. Chúng ta vẫn phải nhờ vào các dấu
hiệu, tức là các bí tích, và Lời Chúa trong Hội Thánh
mà tin tưởng lãnh nhận ơn cứu độ. Ðó là ơn của Ðức Kitô Phục sinh giải
thoát chúng ta khỏi tội lỗi để quay đầu
chúng ta về đời sống công chính. Chúng ta đừng phạm tội kẻo mất
lòng mến Chúa ở nơi mình. Và cho
được như vậy, phải yêu thương anh
em. Nhưng nếu trót sa ngã lại,
chúng ta phải chạy đến với Ðức Yêsu Kitô là
hy lễ xá tội và là Ðấng bầu chữa cho tội
nhân nơi Thiên Chúa Cha.
Mùa phụng vụ này kéo mắt chúng ta nhìn vào
Người là Chiên Vượt qua. Chúng ta ngắm nhìn
Người với lòng yêu mến cậy tin, thì chắc
chắn chúng ta được thêm ơn tha thứ tội
lỗi, được sự sống mới của mầu
nhiệm phục sinh, cũng là lòng mến Chúa trọn
vẹn hơn, để chúng ta sống bác ái huynh
đệ nhiều hơn, làm chúng ta đang ở trong
ơn cứu độ.
Thánh lễ sắp cho chúng ta được tiếp
xúc và rước lấy Chiên Vượt qua. Chúng ta hãy
sốt sắng tham dự với những tâm tình trên.
Gm. Bartôlômêô
Nguyễn Sơn Lâm
|