“HÃY PHÁ NGÔI ĐỀN NÀY ĐI” (Ga 2,19)
CN 3 CHAY B
Không có đền thờ nào
đẹp bằng đền thờ Giêrusalem. Một công
trình nguy nga tráng lệ xây cất ròng rã 46 năm. Khi đi
qua, các môn đệ tự hào chỉ cho Chúa thấy sự
huy hoàng của Đền thờ, nhưng Chúa Giêsu lại
nói rằng: sẽ có ngày không
còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Khi người Do thái
chất vấn : Ông lấy quyền nào mà làm như
vậy ? Chúa Giêsu bảo:
cứ phá Đền thờ này đi, trong ba ngày Ta sẽ
xây dựng lại. Thân thể của Chúa là Đền Thờ kỳ công
của Mầu Nhiệm Nhập Thể. Người ta phá
huỷ Đền Thờ này, chôn vùi vào lòng đất. Sau
ba ngày, Chúa xây lại, đó là Mầu Nhiệm Phục Sinh. Chúa
Giêsu Phục Sinh là Đền Thờ Mới, mỗi
người Kitô hữu là một viên đá sống
động xây dựng nên Đền Thờ ấy.
1. Lịch
Sử thành thánh Giêrusalem
Để hiểu câu nói của người Do thái: “Đền Thờ phải
mất 46 năm mới xây xong”, chúng ta tìm hiểu đôi
nét lịch sử thành thánh Giêrusalem.
Giêrusalem được xem là thành
phố thiêng liêng của ba tôn giáo lớn trên thế
giới: Do thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo. Tư liệu
lịch sử cổ Ai Cập đã nói đến
Giêrusalem, có từ 3.000 năm trước CN.
Với người Do Thái giáo, Giêrusalem
là nơi Đavít lập thành đô.
Với người Kitô giáo, Giêrusalem là
nơi xảy ra nhiều sự kiện cuối đời
của Chúa Giêsu, nhất là biến cố tử nạn phục
sinh của Ngài.
Với người Hồi giáo,
Giêrusalem là nơi giáo chủ Mahômét đã đến hành
hương, là thánh địa quan trọng của họ
sau Mecca và Medina trung tâm của đạo Hồi ở
Ả rập Sauđi.
Giêrusalem, tiếng Do Thái gọi là
Yerushalayim, người Ả rập gọi là Al Quds, có
nghĩa là thành phố văn hoá đa dạng. Như
một trung tâm tôn giáo quan trọng vào thời cổ,
thuộc miền Cận Đông, Giêrusalem như ngã tư
nơi xảy ra nhiều cuộc tranh chấp. Khảo
cổ xác minh điều đó ở những di tích của
thành cổ còn sót lại.
Lịch sử của Thành Thánh là
những cuộc chiến tranh, thôn tính, tàn phá và xây dựng
lại. Đế quốc Babilon, Batư, Hylạp, La Mã,
Byzantine, Thỗ Nhĩ Kỳ, Ottoman, Đế Quốc Anh
đều đã đặt chân lên Giêrusalem. Có lẽ ít
nơi nào trên thế ghi lại chứng kiến sự
biến thiên cũng như sự cộng hưởng
của nhiều nền văn hóa, tôn giáo như miền
đất này. Trong mọi thời kỳ, đền
thờ vốn là biểu tượng của Israel vinh
quang và nhục nhã, trung thành và phản bội.
Ba ngàn năm trước CN, Giêrusalem
chỉ là vùng đất nhỏ bé. Người Canaan đã
đến đó sinh sống, đồng hoá sắc dân
bản địa. Họ ở trên vùng đất cao, dùng
nguồn nước cạnh Gikhon, nằm giữa hai thung
lũng Cedron và Tyropocon. Khoảng năm 2000, dân Amôri
chiếm được miền này. Khoảng 1800, họ
thành lập thành luỹ ở Giêrusalem, tường thành bao
gồm cả đất của dixième dân và chiếm Ôphel
ở phía bắc, họ còn đào một đường
hầm xuyên qua đá để lấy nước ở
suối Gikhon. Vào thế kỷ 14, các bức thư của
El Amarna cho biết Giêrusalem lọt vào tay một quân
vương tên là AbbiHepa. Sự thống trị của
người Canaan kéo
dài tới thời Đavít.
Nằm trên độ cao 800m, bao
gồm thành phố mới và thành phố cổ. Thành
phố cổ do vua Đavít thành lập và con ông, vua Salomon
đã cho kiến thiết một Đền thờ vĩ
đại nhất thời bấy giờ, nhưng
Đền thờ đã hai lần bị phá huỷ và
bị người La mã bình địa năm 70 sau CN.
Giêrusalem trải qua một quãng thời gian dài thành nơi
linh thiêng của người Kitô giáo, nhưng năm 637
người Ả rập chiếm đóng và Giêrusalem
lại thành thánh địa của đạo Hồi,
họ tin rằng: chính trên mỏm núi Moriah, Mahomet đã bay
về trời, thế là họ cho xây đền thờ
Đá (Dome of the Rock). Năm 1099, Thập Tự quân chiếm
đóng, Giêrusalem thành một nước thuộc quyền
người Kitô giáo và sau cuộc đánh chiếm
người Hồi Ottoman 1250 lại đặt
dưới sự thống trị người Hồi
Ả rập.
Sau chiến tranh thế giới
lần I, năm 1922 Giêrusalem đặt dưới
quyền kiểm soát của người Anh. Năm 1948,
người Do Thái về lập quốc, chiến tranh xung
đột giữa Israel và Ả rập xảy ra, Liên
Hiệp quốc đã phân chia khu Cổ thành Thánh địa
Giêrusalem thuộc về xứ Jordanie. Năm 1967, chiến
tranh “Sáu ngày” Israel
chớp nhoáng chiếm lĩnh khu Cổ thành. Năm 1980,
viện Knesset (viện dân biểu) chính thức tuyên
bố “thủ đô vĩnh viễn” bất chấp
sự phản đối của khối Ả rập.
Trong khu vực cổ thành có các bức tường từ
thời Thổ Nhĩ Kỳ, những bức tường từ
thời Salomon và Herod còn dấu tích và còn nhiều di tích
thánh, những vết tích Đền Thánh còn sót lại.
Mỗi tôn giáo đều có khu phố riêng: khu vực Kitô
giáo nằm về phía Tây Bắc quanh mộ Chúa Giêsu; khu
Hồi giáo năm hướng Đông Nam trên
thung lũng Cedron.
Salomon xây Đền Thờ
Thế kỷ thứ 10 trước
CN, Đavít lấy Giêrusalem làm trung tâm của nước Do
Thái. Ông muốn xây một thành Thánh. Kế nghiệp cha,
Salomon đã cho xây dựng một Đền Thánh nguy nga,
lộng lẫy.
Vua Salomon có vàng bạc, đàn gia súc, có
mùa màng và lòng kiêu căng nhưng không có vật dụng
hảo hạng, thợ lành nghề và ý niệm nghệ
thuật xây dựng. Vì vậy ông phải nhờ
đến các người Tyrians, họ có đủ tài
nguyên cần thiết và quan niệm kiến trúc cơ bản
cộng với nghệ thuật của Ai cập và Assyria.
Trong vòng bảy năm, từ 1013
tới 1006, nhà của Giavê được hoàn thành. Giống
như các đền đài Ai Cập, phần căn
bản của nó là Pylon hay tiền đường mặc
áo, cung thánh ngoại vi hay nơi thiêng liêng, phần bên trong
linh thiêng hơn, nơi cực thánh không ai được
đặt chân vào ngoại trừ các thượng tế,
một năm một lần. Một số các phòng phụ
cận dùng vào việc phục dịch đền thờ.
Toàn bộ kiến trúc được dẫy cột bao
quanh gọi là hành lang có mái. Phần này được hoàn
tất muộn về sau.
Bên dưới Haram của Salomon là các
hồ chứa nước dùng cho các nhu cầu của nhân
viên phục vụ đền thánh và việc tế lễ.
Còn việc tắm rửa thì đã có một bể bằng
đồng lớn gọi là "biển
đồng" ( the sea of Bronze). Nó
bắt chước các chậu tắm của Susa và
cuối cùng là cung điện vua thượng vị
với hoàng hậu của ông ở. Ông cư ngụ bên
cạnh Đức Chúa của mình.
Như thế, Salomon hoàn thành công trình
thật tráng lệ. Các kích thước cùng với hình
thể, hoa văn, phù điêu, chữ nghĩa là phổ thông
nơi não trạng Ai cập. Chiều kích của từng
phần và các chi tiết được trù liệu như
các yếu tố của một bài toán mà lời giải là
toàn thể kiến trúc. Nền cao bên hông tam giác đều,
phía trước là tam giác vuông - mà theo Platô tam giác đẹp
nhất, hoàn thiện nhất là tam giác vuông góc các cạnh
được đo như sau 3, 4 và 5.
Việc trang trí gồm có các tấm phù
điêu dát vàng theo như thói quen người Babylon. Sàn
nhà làm bằng gỗ bá hương và thông già, gồm luôn
cả vỉa hè. Các bình thiêng thánh gần như bằng vàng
ròng toàn khối. Các bàn lễ vật, các chân đèn, các cánh
thiên thần Cherubim khắc bằng gỗ dát vàng. Các
dụng cụ tuỳ tùng khác được trang trí hào
phóng.
Dân Israel
đã đồng hóa tình yêu đền thánh với lòng sùng
mộ Đức Chúa: "Lạy Đức Chúa các
đạo binh, cung điện Ngài xiết bao khả ái,
mảnh hồn này khát khao mòn mỏi, mong tới
được khuôn viên đền vàng. Cả tấm thân
con cùng là tấc dạ những hướng lên Chúa Trời
hằng sống mà hớn hở reo mừng" (Tv 83,
2-3).
Đất nước chia đôi,
lưu đày
Vương triều của Salomon
đến cuối đời thì bị phân chia. Trong số
12 chi tộc Israel chỉ có hai chi tộc – Giuđa và Benjamin
– trung thành với nhà vua, còn các chi tộc khác lập một
vương quốc mới, vương quốc Israel. Do
vậy nước chia làm hai: Giuđa và Israel.
Chiến tranh giữa hai nước xảy ra. Miền
Bắc bị đế quốc Assyri xâm chiếm vào năm
721. Miền nam Giuđa Bị đế quốc Babilon tàn
phá năm 587, Đền Thánh bị thiêu đốt, dân Do
Thái phải tha phương cầu thực sống kiếp
lưu đày.
Hồi hương, xây lại
đền thờ lần thứ hai.
Đế quốc Assyri và Babylon
bị đế quốc Ba Tư đánh bại. Năm 538,
vua Ba Tư là Cyrus hạ chỉ cho phép người Do Thái
lưu đầy được hồi hương
trở về quê cha đất tổ. Vua Zorobabel xây
dựng tạm đền thờ trên đống đổ
nát. Nó được đặt trên nền cũ nhưng
nhỏ hơn chút ít. Năm 537, Đền thờ bắt
đầu được tái thiết nhưng 17 năm ròng
rã vẫn chưa xong. Sau cùng, nhờ Khacgai và Giacaria,
Đền thờ được hoàn thành, được
xây cất theo Đền thờ của Salomon và cùng một
kích thước. Năm 445, Nêhêmia xin vua Ba Tư xây dựng
lại tường luỹ bảo vệ chung quanh. Ông
thực hiện trong một thời gian kỷ lục, hai
tháng thì xây xong.
Đế quốc Hylạp, anh em nhà
Maccabê.
Rồi thành Giêrusalem bị đế
quốc Hy lạp chiếm. Năm 166-165, một cuộc
nổi dậy trong dân Do Thái, ngoài Mattathia còn có anh em nhà ái
quốc Maccabê, họ nổi dậy và đã thành công. Tháng
12 năm 165 Giuđa chiếm được Đền
thờ, tổ chức lễ Hanmica cũng gọi là lễ
Ánh sáng, để nhắc lại ngày tẩy uế và dâng
hiến lại Đền thờ cách trọng thể.
Cuộc nổi dậy đó không là một sự thành công
hoàn toàn nhất là về phương diện tôn giáo.
Hêrôđê xây đền thờ lần
thứ ba.
Ngôi đền thứ hai tồn
tại cho đến khi Pompey của Roma thôn tính Giêrusalem và
Hêrôđê cả tự phong mình lên ngôi vua ở thành phố.
Ông vua tiếm vị và sát nhân này cho xây lại đền
thờ Zorobabel, để hoà giải với dân tộc Do
Thái, nhất là giai cấp tư tế và đền bù muôn
vàn tội lỗi đã xúc phạm đến dân tộc
ấy. Ông cần tới ba năm để thu gom vật
liệu cần thiết, và bám sát vào đồ án
trước đây, chỉ tôn tạo dấu vết cổ
xưa, cố gắng dựng lại cách sắp xếp
thuở ban đầu, mặc dù chủ yếu dùng kỹ
thuật Hy lạp – Roma.
Khi mọi sự đã sẵn sàng,
Hêrôđê bắt tay vào việc. Mười ngàn thợ
tốt được sử dụng dưới sự
giám sát của một ngàn tư tế. Chỉ những
tư tế này mới được làm việc nơi cung
thánh và cực thánh. Trong vòng 18 tháng, phần "Naos" (nơi
cực thánh) được hoàn tất và cung hiến. Tám
năm nữa để xây dựng tiền
đường và hành lang. Nhưng những công việc
phụ kéo dài đến thời Agrippa, phỏng năm 64
sau công nguyên nghĩa là cho tới chiều hôm trước
ngày lại bị tàn phá.
Xét theo tổng thể, thì ngôi
đền Hêrôđê để lại, thể hiện quan
niệm kiến trúc tinh tế. Các cột hành lang quay quanh
một dinh cơ đồ sộ, cái nọ chồng lên cái
kia, gọi là hiên hàng cột mà tuyệt đỉnh là chính
cung thánh nằm ngay trên đỉnh đồi.
Coi từ phía xa, và trong nguồn ánh sáng
thuận lợi, nó có một hiệu ứng ánh sáng kỳ
diệu, tuờng đá cẩm thạch trắng, trang trí
vàng bạc giống như một khối tuyết lóng lánh.
Nhìn từ phía núi Olivêtê, khi mặt trời mọc nó sáng chói
với các mái vòm mạ vàng, các cổng, các hoa văn, các dây
leo to tuớng bằng vàng ròng ở cổng chính lấp
loáng dưới ánh mặt trời lung linh. Trước
quang cảnh rực rỡ đó, lòng khách hành hương
không khỏi bùng lên một ngọn lửa kiêu hãnh, thì
thầm lời Thánh vịnh: "Tại Sion, cảnh
sắc tuyệt vời, Thiên Chúa hiển minh" (Tv
59,2).
Thế nhưng, khi thiên hạ tiến
đến từng đoàn lũ từ khắp nơi
để tham dự các lễ hội lớn, xô lấn nhau
vào cổng, tràn ngập các sân. Khi các tư tế lăng
xăng đây đó để chu toàn chức vụ. Khi các
tiến sĩ tranh luận lề luật, chung quanh là
học trò vãng lai hay thường xuyên. Khi hội
đồng Sanhedrin nhóm họp để cân nhắc. Khi các
chiên cừu, bò lừa, chiên dê được dẫn qua
cổng để làm lễ hiến tế, khi các cùi
hủi đến để được tẩy
sạch, khi các người chồng lo lắng dẫn
vợ tới chịu phép thanh tẩy bằng nước "cay
đắng", khi những người đổi
tiền, những lái buôn bồ câu và bánh tiến, thực
hiện dịch vụ ồn ào, thì kiến trúc khổng
lồ này trở nên náo nhiệt, sống động,
diễn tả sức sống của tất cả
những thứ mà nó đứng làm tiêu biểu. Lúc ấy
toàn bộ nơi chốn uy nghiêm này đầy ắp
tiếng lách tách của lửa cháy, tiếng rống
của súc vật bị giết, tiếng nói, giọng
cười, tiếng chân bước và kèn đồng thúc
giục. Đền thờ giống như một “siêu
thị”, tấp nập buôn bán, ồn ào náo nhiệt.
Điều đó, khiến Chúa Giêsu nổi giận làm
một cuộc “thanh tẩy đền thờ” (Ga 2).
Khách hành hương phải chịu những tệ nạn
của bọn đổi tiền bóc lột với giá
cắt cổ.Thật là bất công và càng tệ hơn
nữa khi người ta nhân danh Tôn giáo để trục
lợi. Bên cạnh bọn đổi tiền còn có một
số người bán bò, chiên, bồ câu để khách hành
hương mua làm lễ vật toàn thiêu. Điều
hết sức tự nhiên và tiện lợi là có thể mua
đựơc các con vật ở sân Đền Thờ.
Luật quy định các con vật làm của lễ
phải lành lặn không tỳ vết. Có những chức
sắc kiểm tra khám xét con vật. Mỗi lần khám xét
phải trả 1/12 siếc-lơ, không được mua
vật ở ngoài Đền thờ. Khốn nổi,
mỗi con vật mua trong đền thờ đắt
gấp 15 lần ở bên ngoài. Khách hành hương nghèo
bị bốc lột trắng trợn khi muốn dâng
lễ vật. Sự bất công này lại càng tệ
hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn giáo. Chính vì
những điều ấy đã làm Chúa Giêsu bừng
bừng nổi giận.Chúa lấy dây thừng bện thành
roi đánh đuổi tất cả bọn họ cùng
với chiên bò ra khỏi đền thờ; còn tiền
của những người đổi bạc,
Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế
của họ.
Đế quốc Lamã phá đền
thờ
Đối với người Do Thái,
tôn giáo và chính trị là một. Những người kế
vị Maccabê quá trần tục, họ tranh dành nhau
địa vị, người thì tự xưng là vua:
Aristôbôrô I; người tự xưng là Thượng
tế: Hátmon. Người Do Thái phản ứng quyết
liệt, họ phủ nhận quyền lãnh đạo tôn
giáo cũng như chính trị đó. Trong bối cảnh
đó, người La mã đã đặt chân đến theo
lời mời giảng hoà việc tranh chấp giữa vua
và Thượng tế. Dịp này, người La mã tiến
vào Giêrusalem, nước Giuđa bị biến thành chư
hầu. Hicanô được đặt làm vua Do Thái từ
năm 37-4 trước CN, ông cho xây dựng Đền
thờ. Dưới sự cai trị của quan tổng
trấn La mã, Pônxiô Philatô (ông được hoàng đế
Tibêriô bổ nhiệm năm 26, giữ chức vụ 10
năm, rồi bị mất chức năm 36 sau vụ
giết hại một số người Samaria vô
tội), Chúa Giêsu bị xử tử ở Giêrusalem.
Vào năm 70 sau CN, vị tướng
La mã Titus đem đại quân vây hãm thành. Ông ra lệnh không
được đốt phá. Một quân nhân như bị
thúc đẩy bởi một sức kỳ lạ đã
cầm bó đuốc đang cháy ném vào bên trong Đền
thờ, lửa bốc cháy nhanh, không chữa
được. Sau khi đám cháy tàn lụi, Titus ra lệnh
phá huỷ thành và Đền thờ, ngoại trừ,
như sử gia Josèphe cho biết, ba lều tháp và một
bức tường, để cho hậu lai thấy sự
kiên cố của thành bị phá.
Năm 132 vào thời hoàng đế
Adrien, ông truyền xây một ngôi chùa thờ thần Jupiter,
Giêrusalem gọi là Aelia Capitolina, là một thành chính thức
thuộc về La mã. Năm 362, Julius mệnh danh là “người
chối đạo” cho phép cũng như giúp mọi
phương tiện cho người Do Thái xây lại
Đền thờ, nhưng không thành vì khi khởi công có
chuyện kỳ lạ là những ngọn lửa từ
dưới nền móng bốc lên khiến thợ xây
phải bỏ cuộc (sự việc đó đã
được các giáo phụ như Grêgôriô Nazianze, Gioan Kim
Khẩu và một số sử gia không có đạo sống
vào năm 363 như Socrate, Sozomène, Theodoret kể lại).
Thời vua Constantin.
Năm 333 thời Constantin,
người Do Thái được phép đến than vãn
chỗ đặt Bàn thờ Toàn thiêu, ông cho phá đền
Capitolina, để lộ thiên đồi Golgotha và mồ
thánh. Thánh nữ Hêlêna, mẹ hoàng đế đã tìm ra Thánh
giá của Chúa Giêsu và hai cây thập giá của hai tên tử
tội, Constantin đã cho xây một giáo đường trùm
lên khu vực đó.
Nhiều thăng trầm.
Thế kỷ thứ 5, bắt
đầu có phong trào người Kitô hữu về hành
hương Đất Thánh, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô
Cả đã cho lập nhiều lữ quán để đón
tiếp các đoàn hành hương. Năm 614 người Ba
Tư chiếm được Giêrusalem, đốt phá các
nơi thờ tự, bắt thượng phụ Zacaria và
lấy di tích Thập Giá đem theo. Ít lâu sau, Heracliô lấy
lại được Thập giá trong tay người Ba
Tư (629). Năm 638, người Ả rập chiếm
được Giêrusalem, họ cho xây tại chính tâm
Đền thờ giáo đường El Apsa, sau đó giáo
đường Omar. Kể từ đó, người Do Thái
thường đến than khóc tại bức tường
Than Khóc. Người Hồi giáo đã chiếm Thánh
địa từ lâu, nhưng các chủ nhân Ả rập
này tương đối dễ dãi với các tín hữu
địa phương và khách hành hương, miễn là
nộp thuế cho họ. Hoàng đế Charlemange còn cho xây
dựng một đan viện ở núi cây dầu. Nhưng
từ năm 1009, vua Hakim phá Mồ Thánh. Năm 1071, Hồi
giáo Ả Rập gốc Thổ Nhĩ Kì phá huỷ, bôi
nhọ những nơi thánh thiêng nhất của Kitô giáo
cũng như cản trản những đoàn hành
hương Thánh địa.
Một cuộc chiến tranh mới
xảy ra: chiến tranh của lòng tin. Bấy giờ, vua La
mã, Alexius Commecus thỉnh ý Đức Giáo hoàng Urban II. Giáo
hoàng cho triệu công nghị ở Clermont nước Pháp,
người kêu mời mọi người sẵn sàng lên
đường bảo vệ đức tin. Trước
lời hiệu triệu vừa hùng hồn vừa thống
thiết của Đức Giáo hoàng, như ngọn lửa
nhiệt thành bốc cháy, mọi người từ tu
sĩ, tín hữu la lên: “Chúa sẽ phù trợ”.
Đạo binh Thánh giá không phải là quân đội có
tổ chức mà là sự tập trung ô hợp, nhưng
không vì thế mà không có người lãnh đạo. Một
đội quân mà thành phần là: tu sĩ, hiệp sĩ, nhà
quý tộc, binh lính, nông dân, người buôn bán, có cả
trẻ em.. Họ tin rằng họ thắng chỉ vì có
Chúa độ trì... năm 1096, đoàn quân thứ nhất
lãnh đạo của Godfrey of Bouillon đa phần là
hiệp sĩ và những nhà quí tộc. Sau chín tháng ở Antioch...Tháng
6 năm 1099 họ bắt đầu vào Giêrusalem vào ngày
15/07/1099 họ chiếm được Giêrusalem. Khi tiến
vào Mồ thánh họ đi bộ, đầu để
trần, đến nơi họ quì gối rồi hôn
phần đất mà Chúa Giêsu chịu chết. Họ cho xây
các thánh đường mới, trong đó có thánh
đường Mồ thánh, nhà Tiệc ly...
Năm 1187, Saladin chiếm
được Giêrusalem. Năm 1516, lại rơi vào tay
người Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào năm 1540, Soliman II
cho xây một tường luỹ ở phía Bắc chạy
dọc theo tường luỹ của Agrippa, còn phía Nam
nơi từ tường thành phía nam Đền thờ
chạy dài đến phía bắc Nhà Tiệc Ly. Đó là
bức thành hiện có và cũng từ đó bắt
đầu thời suy tàn...
Giêrusalem bây giờ được phân
chia thành hai phần rõ rệt. Phần ngoại thành
được xây cất hiện đại, với
những cơ quan đầu nảo của chính phủ
Dothái. Phần Cổ Thành, nằm trong bức tường
đá cổ xưa, với các nơi thánh đối
với Kitô giáo, cũng như Do Thái giáo và Hồi giáo.
2. Ngôi Đền
Thờ mới.
Người Do thái
xưa đã xây 46 năm mới xong Đền Thờ. Họ
tự hào về công trình vĩ đại ấy. Chúa Giêsu
lại nói đến ngôi đền thờ thân xác Ngài,
một kỳ công không gì sánh nổi, vì đó là Mầu
Nhiệm Thiên Chúa làm người. Chúa cho phép thần
chết đựơc quyền hành động. thân xác Chúa
đã bị huỷ diệt, chôn vùi trong nấm mồ
lạnh tử khí.
Người Do thái tin rằng công trình
kiến trúc do tay họ dựng lên sẽ bất diệt.
Vì thế họ phẫn nộ khi nghe Chúa nói đến ngôi
đền thờ sẽ bị phá, lại còn đựoc
xây mới chỉ trong ba ngày. Câu nói của Chúa làm họ chói
tai. Họ căm phẫn và tìm mọi cách để
loại trừ Ngài.
Con người mọi thời đại
cũng có những “ngôi
đền” mà họ tin là sẽ bất diệt.
Những “ngôi đền”
đựơc dựng lên để con người tôn
thờ chính mình. Chúng rất kiên cố vì được xây
bằng cố chấp và tham vọng, được trang
trí bằng giả dối và thủ đoạn của con
người.Trải qua các thời đại, “ngôi đền” của con
người có rất nhiều kiểu cách, nhiều
mẫu mã, nhiều thương hiệu. Nhưng tựu
trung vẫn thể hiện một phong cách kiến trúc duy
nhất: chuộng tiền tài, ưa quyền lực, ham
vật dục. Phong cách kiến trúc này rất thích hợp
để thờ những ông thần độc tài, độc
đoán và độc tôn.
Chúa Giêsu đến để phá huỷ
những ngôi đền đó và dựng ngôi đền
thờ mới. Ngôi đền thờ mới chính là Thân
thể được Thần khí hoá của Chúa. Thánh Phaolô
mô tả ngôi đền thờ ấy với một
lối kiến trúc mới
: “bác ái, vui mừng,
bình an, nhẫn nại, nhân từ, hiền lành, khoan dung,
trung thực, khiêm tốn, tiết độ” (Gal 5,22).
Ngôi đền thờ mới bất diệt vì Đấng
Cứu Độ đã chiến thắng tử thần.
Lịch sử đền thờ Giêrusalem
trải qua những thăng trầm thịnh suy.
Đền thờ mới vững bền muôn vạn thưở.
Đền thờ mới là một thách đố
đối với thế gian vốn chỉ quen tôn thờ
quyền lực, giàu sang và tham lam vô độ.
Giữa xã hội hôm nay, “bác ái, vui mừng, bình an, nhẫn nại, nhân từ,
hiền lành, khoan dung, trung thực, khiêm tốn, tiết
độ” trở thành những âm thanh lạc lõng, khó
chịu đối với dòng thác âm thanh cuồng nộ
trong cơn say thế tục.
Chúa Giêsu thực hiện một
cuộc thanh tẩy Đền thờ vì Ngài yêu mến
đền thờ. “Vì nhiệt tâm lo việc Nhà Chúa,mà tôi
đây sẽ phải thiệt thân” (Tv 69,10). Lòng nhiệt thành với
Đền thờ sẽ dẫn Chúa Giêsu đến chỗ
bị người đời bách hại (x. Ga 15,5).
“ Hãy phá huỷ
đền thờ này đi”; những đền thờ
thế tục cũ kỹ, hãy phá bỏ. Hãy nhiệt tâm cùng
Chúa Giêsu xây dựng đền thờ mới để chúng
ta luôn sống trong bình an và hoan lạc của Thánh Thần.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
|