ĐỨc Giêsu chỮa
mỘt ngưỜi phong hỦi
Mc.1,40-45
Ơn cứu độ Đức Giêsu hứa ban không
phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái
lại được gửi đến cho trọn
vẹn con người.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
I. NgỮ cẢnh
Tác giả đã đặt câu
truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành sứ
vụ tại Galilê. Chúng ta chỉ
biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh
với hai tác giả nhất lãm kia (Mt 8,2-4;
Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng.
Mỗi tác giả đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học
của mình mà thôi. Trong TM
Mc, với mẩu
truyện cuối cùng này của ch. 1, hành động
quyền lực của Đức Giêsu đã đạt
tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành
được bệnh phong hủi.
II. BỐ cỤc
Bản văn này có ba phần:
1) Chữa lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (cc.
43-44);
3) Biến cố được phổ biến và
hậu quả (c. 45).
III. Vài
điỂm chú giẢi
- người bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này
trong ch. 13–14: bệnh lây lan đặc biệt nguy hiểm,
cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính
vì thế, người ta không nói “chữa lành” nhưng là
“được thanh tẩy (làm cho sạch)” khỏi
bệnh phong hủi. Ta hiểu được một
lối chơi chữ trên hai từ Híp-ri nâga‛ (“nó đánh”) và nega‛ (“đòn đánh”;
“vết phong hủi”; “người mắc bệnh phong
hủi”) (x. 2 V 15,5; 2 Sb
26,19-20; Is 53,4.8).
Người tôi tớ của Đức Chúa
được mô tả như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn
thấy Người, dân chúng tưởng Người
đã phạm tội (x. G
4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn
sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng
đây là tội của dân.
Từ đó, ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh
phong hủi được dành cho các tư tế: các
vị là những nhà chuyên môn phân biệt được các
dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa
người đã lành bệnh tái tháp nhập cộng
đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13; 14,19; Đnl 24,8).
Tuy nhiên, nếu đúng là
bệnh phong thì người ta coi là chỉ có Thiên Chúa
mới chữa được, bởi vì cũng giống
như gọi một người
chết về lại với cuộc sống. Thiên
Chúa cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những
ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds
12,9-14; x. Xh
4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V
5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ
đợi ai chữa bệnh phong hủi trong tương
lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng
Mêsia (x. Mt 11,5)?
- Người chạnh lòng thương
(41) (Hl. splanchnistheis, partic.
aorist của động từ splanchnizomai do từ ta splanchna, lòng dạ): “bị rúng
động”; “bị chuyển động trong lòng”.
- giơ tay
đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của
một cuộc chữa
lành bằng uy quyền. “Đụng” đây không phải là vi phạm qui định của luật
lệ Do-thái liên hệ đến sự trong sạch,
nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người nghiêm giọng (“làm gắt”, NTT) (43):
Động từ Hy-lạp embrimaomai, “khịt khịt” (ngựa);
“phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong lòng”
(người). Đức Giêsu cho hiểu
rằng Người vừa làm một việc ngoại
lệ là chữa bệnh công khai, ngược lại
với quyết định của Người. Do
đó, Người “đuổi” anh này đi ngay để
người ta đừng hiểu sai sứ mạng
của Người. Động từ embrimaomai không có từ
tương đương trong ngôn ngữ Tây phương
(TOB: s’irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away with the stern
warning).
- để
làm chứng cho người ta biết (“để
làm chứng trước mặt họ”, NTT) (44): Có những
người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng (chẳng
hạn, cha Lagrange: “pour l’attester au peuple”). Nhưng
hiểu như thế có phần ép bản văn.
Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong
đến trình diện tư tế và nhắc anh phải
dâng một hy lễ đúng theo Lv
14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên
của bản văn, đại danh từ qui về các
tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang
số nhiều được giải thích là: việc làm
chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế chứng
thực, để đến với toàn giai cấp tư
tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh này
một sứ mạng phải thực hiện nơi các
tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong
hủi là một dấu chỉ thiên sai. Vì
chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã
miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật thiên sai.
IV. Ý
nghĩa cỦa bẢn văn
*
Chữa lành người phong hủi (40-42)
Với bài tường thuật Đức
Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc
ch. 1, Mc đưa hành vi quyền lực của Đức Giêsu
tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong
được người Do-thái coi như là một chứng bênh đặc
biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu
của người bệnh chứng tỏ một niềm
tin tưởng phi thường: “Nếu Ngài muốn, Ngài có
thể làm cho tôi được sạch” (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu
một quyền lực to lớn. Lời
khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa
chứng tỏ lối xử sự trước đây
của Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và
thức tỉnh những niềm chờ mong nào.
Đức Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ
cần Người muốn một điều là điều ấy
được thực hiện. Người
phong hủi được chữa lành tức khắc.
*
Lệnh cấm nói và trình diện tư tế (43-44)
Đức Giêsu đã gửi anh
đi trình diện với các tư tế, để các
vị này ghi nhận bệnh đã lành và để cho
kẻ trước đây bị loại trừ nay
được chấp nhận vào lại trong cộng
đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào
nền phụng tự của anh em mình. Đức
Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ
và cấm người đã khỏi bệnh nói về
chuyện mình được chữa khỏi.
*
Biến cố được phổ biến và hậu
quả (45)
Tuy nhiên, anh này không tuân theo
lệnh của Đức Giêsu, anh đã rao truyền
khắp nơi những gì đã xảy ra cho anh. Do đó,
danh tiếng của Đức Giêsu càng lan
rộng hơn nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng
tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp
nơi tuôn đến với Người. Thật ra, các
hành vi quyền lực của Đức
Giêsu không có ý nghĩa tối hậu nơi sự kiện là
có người bệnh nào đó được khỏi. Ý
nghĩa của các hành vi đó là cho
thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa,
thấy rằng Triều Đại Thiên Chúa đang
đến gần, để mọi người có thể
tin vào Người.
+
Kết luận
Chữa bệnh phong hủi là
một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy
Đức Giêsu đến loan báo Tin Mừng về
Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể
của Thiên Chúa đang tìm cách cứ độ con người.
Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không
phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái
lại được gửi đến cho trọn
vẹn con người. Thiên Chúa đã làm điều đó
nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.
V. GỢi
ý suy niỆm
1. Như người bệnh của bài Tin
Mừng, chúng ta được lưu ý: không ép buộc Thiên
Chúa luôn luôn phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo cách chúng ta qui định. Chúng ta cứ
bày tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta,
rồi để Ngài định liệu :”Nếu
Ngài muốn”.
2. Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong
việc phục vụ. Như Đức
Giêsu, người ki-tô hữu phục vụ, cứu
chữa, vì lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi
khốn cùng của anh chị em mình, chứ không phải
để chứng tỏ bản thân. Người
ki-tô hữu phục vụ vì lòng chan hòa bác ái, chứ không
phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng
của người khác).
3. Hôm nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái
độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ
lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng
đang liên tục ban muôn vàn ân sủng
cho chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta
đã và đang nhận được những ân huệ
lớn lao nào.
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
|