Đức Mẹ Međugorje, Nữ Vương Hòa Bình
§ Hà Thuận
Trích thanhlinh.net
“Mễdu vùng đất địa đàng Khi đi tới đó không màng thế gian Mễdu vùng đất linh thiêng Khi đi tới đó con quên đường về.”
Trong lịch sử Giáo Hội Đức Mẹ đã hiện ra nhiều nơi trên thế giới. Nơi nào Mẹ cũng chỉ đặt chân đến một thời gian thật ngắn ngủi, nhưng lần này Mẹ đến Mễdu không như đến các danh địa khác. Ở Mễdu, Mẹ đã hiện ra cả ngàn lần; việc hiển linh xảy ra hằng ngày, ròng rã 25 năm và cho tới bây giờ cũng vẫn còn đang tiếp diễn. Thiên Chúa gửi Mẹ tới để dạy dỗ, cải hóa nhân loại để tránh cho nhân loại những hiểm họa tai kiếp đang đe dọa. Từ đầu lịch sử Giáo Hội tới nay chưa bao giờ Mẹ ban sứ điệp cho thế giới nhiều như hiện nay. Phải chăng đây là những ngày cuối cùng của một thời đại của thế giới? Vì Mẹ nói đây là lần cuối Mẹ hiện ra trên trái đất.
Cùng một mục đích như Fatima, Lộ Đức, Đức Mẹ tới Mễdu cũng vẫn kêu gọi nhân loại hoán cải đời sống, trở về với Thiên Chúa, là điều kiện để thế giới được hòa bình. Mễ du là chương trình hòa bình được nối tiếp con đường Fatima bao năm trước. Mẹ cần phải hoàn tất cái kế hoạch của Thiên Chúa cho loài người. Ngay khi hiện ở Mễdu, Mẹ đã để trên bầu trời một chữ “MIR” (tiếng Croatia) có nghĩa “HÒA BÌNH”, chữ này được viết bằng ánh sáng trên núi Krizevac có xây một cây thánh giá lớn trên đó.
Sứ điệp hòa bình, Đức Mẹ nói: “Các con yêu dấu! Bữa nay như chưa bao giờ, Mẹ kêu gọi các con cầu nguyện cho hòa bình, hòa bình trong trái tim các con, trong gia đình các con và hòa bình trên toàn thế giới, bởi Satan muốn chiến tranh, nó không muốn hòa bình, nó muốn hủy diệt tất cả những gì tốt lành trên trái đất này. Bởi vậy, hỡi các con nhỏ! Cầu nguyện, cầu nguyện, và cầu nguyện. Mẹ cám ơn các con đã hưởng ứng lời kêu gọi của Mẹ.”
Tại sao Đức Mẹ luôn luôn kêu gọi hòa bình? Nhìn quanh thế giới ngày nay, cuộc sống con người đầy sự đe dọa, đen tối nên hòa bình là điều cần thiết để cứu vãn nhân loại ngày nay. Muốn có hòa bình, trước tiên chúng ta phải quyết tâm sống trong hòa bình. Phải kiến tạo hòa bình trong tâm hồn và trong gia đình chúng ta. Rồi từ đó hòa bình sẽ lan tỏa ra trên xã hội, trên thế giới. Bản thân chúng ta không có hòa bình thì làm sao thế giới có hòa bình. Không yêu thương nhau thì không thể có hòa bình. Hòa bình sanh yêu thương, yêu thương sanh tha thứ như Mẹ nói.
Chương trình của Mẹ là do Thiên Chúa ban ra. Những thông điệp của Mẹ ban cho chúng ta cũng không ngoài Thánh Ý Chúa. Mẹ nói: “Các con yêu dấu! Các con không nhận thức được rằng những thông điệp Thiên Chúa đang gửi tới cho các con qua Mẹ. Ngài ban cho các con những hồng ân trọng đại, nhưng các con đã không hiểu. Hãy cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng. Nếu các con hiểu được hồng ân Thiên Chúa ban cho các con trọng đại dường nào thì các con sẽ cầu nguyện không ngừng. Cám ơn…(8/11/1984).
Mẹ đã ban ra biết bao sứ điệp, sứ điệp nào cũng ấp ủ một tình yêu thương trìu mến của một tình mẫu tử. Mẹ lo lắng không ngừng cho phần rỗi con cái của Mẹ, bởi vậy, Mẹ kêu gọi van xin chúng ta qua các thị nhân với tấm lòng từ mẫu vô biên của Mẹ. Thật vậy, Mẹ đã cho chúng ta đầy lòng trông cậy, tràn trề niềm tin và một con đường tỏa đầy ánh sáng trong cuộc sống tối đen ghê sợ này.
VÀI DÒNG LỊCH SỬ VỀ CUỘC HIỆN RA.
Quay ngược dòng thời gian chúng ta cùng nhau di vào biến cố của 25 năm trước tại ngôi làng Mễdu nơi mà Thiên Chúa đã chọn để gửi Mẹ tới với nhân loại. Chúng ta có diễm phúc sống trong giai đoạn lịch sử mà ân sủng như thác lũ đổ xuống cho chúng ta qua bàn tay của Mẹ; xét ra trong lịch sử Giáo Hội loài người chưa bao giờ có diễm phúc hơn.
Mễdu là một ngôi làng nhỏ bé nằm giữa vùng đồi núi miền Tây Bosnia (Nam Tư cũ), thuộc lãnh thổ Herzegovina. Ngày 24/6/1981, tức là ngày Lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, Đức Mẹ đã hiện ra với sáu thanh thiếu niên nam nữ thuộc xứ đạo Thánh Giacôbê, trên ngọn đồi Podbrdo (Pônđô). Tên của 6 em là:
Mirjana Dragicevic Soldo, 16 tuổi. Ivanka Ivankovic Elez, 16 tuổi. Ivan Dragicevic, 16 tuổi. Marija Pavlovic, 16 tuổi. Jacov Colo, 10 tuổi. Vicka Ivankovic, 17 tuổi
(Mặc dù tên họ giống nhau nhưng không có họ hàng).
Đức Mẹ đã ban 10 điều bí mật cho Mirjana, Ivanka, Jacov. Còn Ivan, Marija và Vicka mới chỉ có 9 điều. Trong 10 điều bí mật có mấy điều là những hình phạt của thế giới. Khi nào cả sáu người đều được cả 10 điều bí mật thì Đức Mẹ sẽ không hiện ra nữa. Mirjana là người được Đức Mẹ trao trọng trách phải thông báo cho thế giới biết các bí mật ấy khi thời điểm đến. Theo như Mirjana cho biết thì cô rất sợ hãi và đau khổ khi nghĩ tới những người thiếu đức tin sẽ phải gánh lấy một hậu quả vô cùng khủng khiếp…Nếu không có Đức Mẹ giúp đỡ thì chắc cô đau khổ khôn cùng.
Từ năm 1981 đến giờ, Mẹ tới với họ để dạy dỗ, bảo ban, huấn luyện họ trở thành những công cụ đắc lực của Mẹ, và để rao truyền những sứ điệp của Mẹ cho thế giới. Hiện tại cả sáu người đều lập gia đình. Sáu người, mỗi người đều có một sứ mạng mạng riêng của mình. Họ đã trở thành những nhân vật tên tuổi trên thế giới, nhất là trong lịch sử Giáo Hội, dù rằng trước đó chẳng một ai biết đến họ. Ngoài sáu thị nhân kể trên còn hai người nữa là Jêlêna và Marijana là hai thụ khải (interior locutionist) luôn luôn được nghe tiếng Mẹ nói trong lòng. Đức Mẹ cho cá thị nhân thấy Thiên Đàng, Hỏa ngục, và Lửa Luyện Tội. Mẹ nói số người sa địa ngục rất nhiều. Jacov nói: “Nói về Thiên Đàng, Lửa Luyện Tội và Hỏa Ngục thì chính chúng tôi đã được viếng những nơi đó, cũng như chúng tôi từng được diện kiến Đức Mẹ vậy. Thiên Đàng, Hỏa ngục và Lửa Luyện Tội có thật. Tôi hỏi Đức Mẹ tại sao lại cho chúng tôi thấy những nơi này thì Mẹ nói là vì có nhiều người không tin đó là sự thật. M ẹ n ói: “Số người sa địa ngục rất nhiều; đa số xuống luyện ngục; và một số nhỏ lên thẳng thiên đàng ”.
Ngôi thánh đường Giacôbê thuộc xứ đạo này được cất lên năm 1969, rất đẹp, nằm giữa những cánh đồng thuốc lá và những vườn nho. Dân làng nơi đây trước kia sống toàn bằng nghề trồng thuốc lá, lúa mì, nho. Một số đàn ông đi công tác lao động tại các nước thuộc khối Liên Xô để đem tiền về nuôi gia đình. Đối diện với thánh đường, cách chừng một câysố là ngọn núi Krizevac (Núi Thánh Giá). Trên ngọn núi này giáo dân đã cất một cây thánh giá khổng lồ bằng bêt ông cốt sắt cao 12 mét vào năm 1933, để tưởng nhớ Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu. Từ khi Đức Mẹ hiện ra nơi đây thì cây thánh giá này có rất nhiều kỳ tích xảy ra. Dân làng Mễdu sống rải rác dưới chân núi này và xung quanh thánh đường. Chênh chếch với ngôi thánh đường về hướng Đông, một ngọn đồi mà lần đầu tiên Đức Mẹ đã hiện ra với bọn trẻ là đồi Pônđô (Podbrdo). Ngôi làng Bijakovici, nơi sinh trưởng của 6 thị nhân nằm dưới chân đồi này.
LẦN ĐẦU TIÊN HIỆN RA: 24-6-1981
Một chiều mùa Hè ở Nam Tư rất nóng nực. Sau một ngày làm việc ở ngoài đồng, Ivanka và Mirjana rủ nhau đến nhà Vicka để rủ Vicka cùng đi tản bộ nhưng Vicka còn ngủ. Hai cô đành tản bộ dọc theo chân đồi Pônđô. Bất chợt Ivanka nhìn thấy Đức Trinh Nữ Maria đẹp tuyệt trần trong chiếc áo dài mầu xám, đứng trên đám mây tỏa đầy ánh sáng. Đầu trùm khăn voan trắng dài tới gót. Trên đầu có 12 ngôi sao kết thành triều thiên. Ivanka sững sờ nói cho Mirjana biết, nhưng Mirjana không để ý tới sự kiện đó nên khi nghe Ivanka nói thì cô không tin và cũng không buồn nhìn lên. Cô nói: “Đức Mẹ đời nào hiện ra nơi này.” Nhưng rồi cô nhìn lên thì kìa Đức Mẹ đang uy nghi đứng trên cụm mây. Đúng lúc đó, Vicka cũng vừa tới; Vicka nhìn theo ánh mắt của hai người bạn, cô hoảng sợ bỏ chạy. Chạy được một quãng cô gặp Ivan và một người bạn vừa đi hái táo về. Vicka lắp bắp nói cho Ivan biết. Rồi cả ba cùng đi đến chỗ Đức Mẹ hiển linh. Tới nơi, thấy vậy tất cả đều bỏ chạy. Nhưng rồi họ lại rủ nhau trở lại thì Đức Mẹ không còn ở chỗ cũ nữa mà về phía trên đồi xa hơn một chút. Họ thấy Đức Mẹ tay bồng Chúa Hài Đồng được bọc trong khăn. Mặc dù Người đứng khá xa nhưng các em vẫn thấy rõ ràng. Mẹ gọi các em tới gần nhưng các em sợ hãi không nhúc nhích. Thấy vậy, Mẹ biến mất trong vùng trời cao thẳm.
Bắt đầu từ chiều hôm đó các em đã nhận được một thiên tình sử của Thiên Chúa. Cuộc sống các em đổi thay, chẳng những vậy còn thay đổi luôn cả một cái thế giới đảo điên này. Các em ra về với cõi lòng hoang mang sợ sệt. Tối đó mọi người trong làng đều bàn tán xôn xao. Tin tức truyền đi rất nhanh qua những làng lân cận. Có người cho rằng các em nói láo. Nhưng số người đã biết rõ các em thì tin có thật.
NGÀY HIỆN RA THỨ HAI: 25-6-1981
Rạng đông ngày hôm nay. Tiếng gà gáy rộn rã chào đón bình minh. Tiếng người lao xao trên đường đi làm. Sương còn đọng trên những mầu lá xanh mơn mởn. Dân làm đồng áng lại bắt đầu một ngày mới. Hôm đó, mặc dù chân tay làm việc không ngừng nhưng Ivanka, Mirjana, Milka, Ivan trong đầu đầy ắp những tư tưởng lạ. Họ rủ nhau về sớm để tới ngọn đồi Pônđô. Vicka đã hứa với hai người bạn khác là Marija Pavlovic, 16 tuổi, chị của Milka và Jacov, 10 tuổi, là sẽ đến dẫn họ đi theo. Chiều hôm đó Ivankovic không đi dù chiều hôm trước đã thấy Đức Mẹ. Milka cũng vậy, mẹ cô vì có chuyện bảo cô phải làm nên không cho cô đi với mấy người bạn. Marija (chị Milka) đi thế cô và từ đó Marija trở thành người nhận lãnh sứ điệp của Đức Mẹ ban ra hàng tháng để chuyển lại cho thế giới.
Khi các em lên tới chân đồi Pônđô, họ thấy trước mặt họ là một bức tường ánh sáng vô tận. Các em sợ không dám đi vì xem ra không có cách nào có thể qua lọt được, nghĩ tới đó các em bỏ chạy. Chạy được một quãng quay đầu lại coi cái vùng ánh sáng có đuổi theo không, nhưng ánh sáng đó di chuyển về hướng núi Thánh Giá, cạnh ngọn đồi Pônđô nơi các em đang đứng. Từ sau vùng ánh sáng, Đức Mẹ lộ ra xinh đẹp tuyệt vời. Các em lại bỏ chạy nhanh hơn trước. Sau khi chạy được chừng 20m trong kinh hoàng, xuyên qua các bụi gai bao kín ngọn đồi, trên những lớp đá lởm chởm, sắc bén như dao, các em quay lại nhìn về phía Người Phụ Nữ đẹp tuyệt vời đó mà các em có cảm tưởng rằng “Bà Khoác Ánh Sáng Mặt Trời” (KH 12.1). Các em nghe Mẹ gọi và vẫy lại gần. Đức Mẹ khoảng chừng 20 tuổi; hai má đỏ hồng; mắt xanh, thật cực kỳ diễm lệ. Nếu nói về vẻ đẹp của Mẹ thì không có ai có thể diễn tả được. Thiết tưởng thế giới này không một ai có thể vẽ nổi chân dung của Mẹ. Ivan nói, sau những lần diện kiến Mẹ, anh thật ngao ngán khi trở về với thực tại trần gian chán chường này. Khi gặp Mẹ rồi không còn thiết gì nữa. (Đây là những lời anh nói với tôi sau này khi gặp anh).
Đã hai ngày nay, cả thôn làng xôn xao. Đêm về thì thao thức đầy ắp những ý nghĩ trong đầu với cái biến cố vừa xảy ra. Thật ra lòng họ tràn ngập âu sầu lo lắng. Đa số không tin lời các em nói.
Chiều 26/6. Lần này hầu như tất cả dân làng đều kéo nhau lên núi. Vicka hướng dẫn cả nhóm cầu nguyện bằng Kinh Tin Kính, 7 Kinh Lạy Cha, 7 Kinh Kính Mừng, 7 Kinh Sáng Danh. Lúc họ đọc xong thì một vùng ánh sáng xuất hiện trên núi bao trùm cả các em. Khi vầng ánh sáng tan đi thì các em thấy Đức Mẹ đẹp vô song đứng đó với nụ cười xinh tươi. Vicka lấy bình nước phép đã mang theo vẩy lên theo hình thánh giá và nói: “Nếu bà là Satan thì hãy biến khỏi nơi này.” Đức Mẹ mỉm cười, nụ cười đầy yêu thương đáp lại: “Vinh danh Chúa Giêsu. Các con không nên sợ hãi, các thiên thần của Mẹ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương Hòa Bình”, là Mẹ của mọi người trần thế.” Trong khi đó tất cả mọi người dân làng đều thấy vầng ánh sáng đó và họ bắt đầu tin là sự thật.
Đức Giám Mục đến và nhiều linh mục cũng bắt đầu tin vào biến cố vĩ đại này. Và từ đó Đức Mẹ tới hằng ngày với các em vào lúc 6g40 chiều mùa hè, 5g40 chiều mùa đông. Hằng ngày Mẹ tới một mình; có khi với cả ba Thiên Thần nhỏ. Vào lễ Noel, Mẹ thường tới với Chúa Hài Đồng, có khi cả Thánh Giuse. Mỗi thư Sáu Tuần Thánh Mẹ tới với Chúa Giêsu trong hình hài thật đau thương. Chúa với thân hình tiều tụy rách rưới thương tích đầy mình, đầu đội mão gai, máu chảy trên khuôn mặt, trầm lặng không nói một lời. Đức Mẹ vì yêu Con nên nước mắt Mẹ chan hòa vì thương Chúa. Và bất luận các em đi đâu, ở đâu, cứ đúng giờ là Mẹ tới với họ.
Ngày 26/7. Linh mục Jozo Zovko lúc đó là cha xứ họ đạo Thánh Giacôbê đi tĩnh tâm ở Zagreb nên không hay biết những gì đã xảy ra cho giáo xứ mình. Khi nghe tin, ngài vội vã trở về. Mới đầu ngài không tin, cho là các em bị thần kinh hay bị ma túy gì đó. Nhưng Đức Giám Mục sở tại lại tin, ngài nói: “Các em không nói láo; tôi tin Mễdu hơn Fatima.” Về tới nơi, Cha Jozo không thấy các em đâu cả vì sáng hôm đó cảnh sát đã đem các em tới sở cảnh sát để tra hỏi. Tại đây, các em đã bị hạch hỏi đe dọa đủ điều, nhưng các em không sợ, không chối bỏ sự thật. Thất bại nhưng không chịu thua, cảnh sát phải gửi các em tới bác sĩ thần kinh để coi các em có bị loạn trí hay không, nhưng qua các cuộc khám nghiệm của các bác sĩ, họ kết luận các em rất bình thường. Sau đó họ đành phải thả các em ra về.
Một ngày nữa qua đi. Ngày mới lại đến, đây là lần đầu tiên các linh mục đi với các em lên đồi Pônđô. Dân chúng tới đông vô kể. Khi bắt đầu leo đồi các em đã bị phân tán. Các linh mục cho rằng các em có thể lạc nhau và không đầy đủ khi Mẹ tới. Nhưng lạ thay, khi tia sang báo hiệu Đức Mẹ sắp hiện ra loé lên, các em đã chạy tới từ năm hướng khác nhau. Thậy kỳ diệu, các em đến cùng một chỗ, cùng một lúc, và cùng quì xụp xuống bắt đầu cầu nguyện, sau đó Đức Mẹ hiện ra với các em.
Ngày 28/6/1981. Nắng chan hòa trên những cánh đồng. Gió mơn man trên cỏ cây, nhưng sự thinh lặng đang bao trùm ngôi làng nhỏ bé này. Sau 5 ngày hiển linh liên tiếp, càng ngày người ta càng đổ về đông. Thánh lễ 10:30 sáng Chúa Nhật đã lên tới 15.000 người tới dự. Sau thánh lễ cha Jozo gọi sáu em tới hỏi về biến cố này. Ngài biết rằng sẽ gặp những phiền toái với chính quyền địa phương. Họ sẽ không bao giờ để yên cho các em sống thanh thản bình an, sẽ có những tra khảo, bắt bớ..v.v..
Liên tục cả tuần lễ như vậy. Hàng ngàn người đổ về. Tối hôm đó số người tới ngọn đồi Pôndô càng đông hơn nữa, hầu như không có lấy một kẽ hở cho các em len chân, nhưng rồi Mẹ cũng đã hiện ra với đám trẻ. Trong khi đó, có một bà bác sĩ hỏi các em, bà có thể rờ vào áo Đức Mẹ không. Đức Mẹ bằng lòng, tức thì Mẹ biến mất vì bà đã làm dơ áo của Mẹ. Vicka khóc và xin Mẹ trở lại. Mẹ lại hiện ra với họ. Sau này bà ta cho biết lúc đó bà cảm thấy có một giòng điện chạy vô tay bà khi bà chạm vô Áo của Người.
Tin tức về những lần hiển linh được loan truyền khiến người ta tới càng ngày càng đông. Ông bà Setka đem ba đứa con nhỏ tới từ một thị trấn xa xôi. Con ông, Đanien đã 3 tuổi rồi mà vẫn chưa nói được. Hai ông bà xin các em cầu nguyện cho bé. Vicka xin Đức Mẹ làm phép lạ cho Đanien để mọi người tin tưởng các em, nhưng Đức Mẹ nói hãy để cha mẹ Đanien cầu nguyện, ăn chay đồng thời họ phải có đức tin. Mẹ nhìn lên trời cao cầu nguyện với Chúa Giêsu. Sau đó trên con đường về nhà bé Đanien đã nói được. Đó là phép lạ đầu tiên ở Mễdu.
Ngày 30/6. Rạng đông thật đẹp, và nắng lên chan hòa. Dù phép lạ xảy ra trong cái xóm nhỏ này nhưng chính quyền sở tại rất lo lắng về cái biến cố nơi đây. Họ vẫn chưa thành công trong cái kế hoạch của họ đối phó với các em. Ngày hôm sau có hai bà cán sự đưa xe tới mang năm người đi ngoại trừ Ivan. Họ chở các em ra khỏi thôn Bijakovici, và tới thác nước gần đó. Đây là một mưu mẹo để các em kh ông tới được ngọn đồi Pônđô. Trong khi đó đám đông tụ tập trên đồi để chờ các em. Hai bà này đinh ninh nếu các em không có trên đồi thì Đức Mẹ sẽ không hiện ra ở đó, và như vậy đám đông sẽ tự động giải tán và bực bội với các em. Lúc gần tới giờ hiển linh, các em đòi về nhưng họ từ chối. Hai bà chở các em chỉ còn chừng 10 dặm là đến thôn Bijakovici, từ khoảng cách đó các em đã nhìn thấy ngọn đồi Pônđô, các em năn nỉ dừng lại nhưng họ làm ngơ, các em dọa nhảy ra khỏi xe, họ đành phải nghe theo. Các em tiến lại bên đường và nhìn về phía đồi thấy đám đông đứng kín mít. Các em bắt đầu cầu nguyện thì kìa một đám mây có tia sáng đang di chuyển về phía các em, các em đã thấy Đức Mẹ. Người bồng bềnh trên không và đang tiến về phía các em. Hai bà cán sự chứng kiến cái tia sáng trên đồi và kinh ngạc thấy cái ánh sáng đó dừng ngay trước mặt các em. Họ chỉ thấy ánh sáng chứ không thấy Đức Mẹ. Các em liền quì xuống khi Đức Mẹ tới gần. Sau đó Đức Mẹ trở về ngọn đồi Pônđô. Đám đông tối đó tắm trong ánh sáng chan hòa của Mẹ. Hai bà cán sự nhìn sửng các em với sự kinh ngạc rồi chở các em về. Vì quá xúc động trước sự lạ, ngày hôm sau hai bà đã xin nghỉ việc vì họ thật sự đã tin.
Tại thánh đường cha Jozo ngồi một mình với cuốn Thánh Kinh, đầu óc rối bời, tâm hồn nặng trĩu những câu hỏi mà ngài không thể giải đáp được: “Chúa ơi, con có cảm tưởng như Môisen đứng trước biển đỏ, con muốn nói chuyện trực tiếp với Chúa về đám đông trên đồi. Con phải trả lời những câu hỏi của họ. Bây giờ ngoài kia cả ngàn người đang chờ đợi. Chúa đã nói chuyện với Abraham, Môisen và cả chúng con nữa. Chúa hãy nói cho con biết, con sông này sẽ đi về đâu và nó sẽ đi bao xa nữa? Chúa ơi, xin giúp con.” Mặc dù nhà thờ vắng tanh không một bóng người. Bỗng có tiếng nói: “Hãy đi ra ngoài bảo vệ đám trẻ và Ta sẽ chỉ cho con phải làm những gì.” Ngài rất đổi ngạc nhiên nhưng không nghi ngờ và chậm trễ, ngài biết Chúa đang nói với mình. Ngài liền bỏ cuốn Thánh Kinh xuống và đi ra ngoài cửa thấy các em đang chạy lao về phía mình một cách sợ hãi, khóc lóc, xin ngài bảo vệ. Ngài lập tức đem các em đi giấu vào một căn phòng rồi khóa cửa lại. Ra ngoài, ngài thấy dám cảnh sát cũng đang trờ tới đuổi theo các em. Ngài bảo họ đi về hướng khác, và họ làm theo. Rồi ngài vô nói cho các em biết để các em khỏi lo sợ. Sau đó Đức Mẹ hiện ra với các em ngay tại phòng để an ủi các em.
Cha Jozo thấy cả ngàn giáo dân đổ về đầy thôn xóm và ngọn đồi Pônđô. Ngài truyền cho mọi người lần hạt trong nhà thờ lúc đó là 5 giờ chiều, tiếp đó là Thánh lễ. Ngài đã nói chuyện về cuộc hiển linh lần đầu tiên buổi tối đó. Trong bài giảng, ngài xin mọi người cầu nguyện và ăn chay để xin Chúa giúp họ hiểu được cái biến cố quan trọng này. Sau này ngài là chứng nhân hàng đầu ở Mễdu, và vì bảo vệ cuộc hiện ra, ngài bị nhà cầm quyền kết án và bị giam trong nhà lao một năm rưỡi nhưng được Đức Mẹ che chở cho ngài, tối tối người canh gác đều thấy ánh sáng ngập tràn trong phòng giam của ngài. Sau đó họ thả ngài ra nhưng không được giữ chức quản nhiệm của xứ đạo đó nữa.
Tối ngày 14/7/1981. Khoảng 11 giờ đêm, một chuyện lạ xảy ra trên đồi Pônđô. Lúc đó độ chừng 40 người đang cầu nguyện. Từ trời cao cửa thiên đàng tự động mở ra, một thứ ánh sáng mầu vàng đổ xuống trên đám người hiện diện. Trước khi chạm đất nó nổ tung ra như những mảnh sao vụn lấp lánh rất đẹp. Mọi người ở đó thấy vậy đều quì xuống cầu nguyện, khóc lóc vì họ tưởng tận thế đến. Các em cho biết rằng Đức Mẹ đang ở giữa mọi người. Vicka nói: “Chúng tôi cầu nguyện và khóc cùng một lúc. Lúc đó thời gian như chốc lát nhưng có người nói cỡ 40 phút. Khi Đức Mẹ đi rồi, chúng tôi cũng ra về. Không ai biết được những cảm nghiệm mà chúng tôi đã được diễm phúc hưởng trong cái tối đẹp lạ lùng đó.”
Ngày 12/8/81. Cảnh sát bao vây ngọn đồi Pônđô. Họ cho lính gác ngày đêm và cấm không cho ai lại gần. Từ đó, Đức Mẹ khởi sự hiện ra với các em ở thôn Bijakovici. Nhiều khi Đức Mẹ hiện ra ở ngoài cánh đồng vì ngọn đồi đã bị rào cản. Nhưng cho dù họ cấm đoán thế nào đi nữa Đức Mẹ cũng vẫn hiện ra với các thị nhân và đám đông như thường. Thường thì những buổi tối, sau khi đã xong những công việc đồng áng, dân làng và đám người hành hương tụ tập nhau lại ngoài đồng để cầu nguyện và chờ cái giờ hiển linh của Mẹ Thiên Chúa. Dưới bầu trời, Người Mẹ từ trời cao và đám con trần thế cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau ca hát với nhau một cách ung dung nhàn hạ. Họ tạ ơn Chúa vì Người đã thương mà gửi xuống cái xóm nhỏ khiêm nhường, nghèo nàn này một ân sủng quá ư trọng đại. Một tối sau Thánh Lễ, Đức Mẹ nói với Marija tới hội chung với đám người ngoài cánh đồng, Mẹ nói: “Marija, con nên hiểu rằng có một trận chiến dữ dội đang xảy ra giữa Con của Mẹ và Satan để chiếm đoạt các linh hồn.” Sau đó, Mẹ cho phép mọi người rờ vô người của Mẹ. Marija chỉ cho họ biết Mẹ đứng ở đâu để họ có thể chạm tới. Mỗi người đều chạm vô chiếc khăn voan của Mẹ. Một lúc sau, chiếc khăn voan trắng tinh trở nên đen xậm. Tức thì Đức Mẹ biến mất. Marija bật khóc nói với Marinko, Đức Mẹ bị nhơ bẩn vì tội lỗi của mọi người. Marinko lập tức khuyên mọi người nên đi xưng tội để thanh tẩy tội lỗi của mình.
Ròng rã 25 năm nay, Đức Mẹ vẫn không mệt mỏi ban sứ điệp kêu gọi van xin nhân loại trở về con đường thánh thiện. Không có người mẹ nào muốn thấy con cái mình bị đau khổ. Không có người mẹ nào thấy con cái đang trên đường lao vào biển lửa mà đành tâm đứng nhìn không ra tay cứu vớt, nhất là người mẹ đó lại là người mẹ đầy lòng yêu thương, từ bi, lân tuất như Đức Maria, mẹ của chúng ta. Mẹ đã khóc biết bao lần khi thấy bầy con của Mẹ sống trong tội lỗi. Mirjana nói, Đức Mẹ đau lòng vì thế giới đầy những thảm cảnh như chiến tranh, ma túy, phá thai, giết người v.v. Mẹ muốn chúng ta lau nước mắt cho Mẹ.
Những sứ điệp của Mẹ vẫn là những yếu tố căn bản của đời sống một Kitô Hữu: “Thánh Lễ, cầu nguyện, ăn chay, hoán cải, đức tin, đền tội và hòa bình. Chúa đã chẳng dạy chúng ta như vậy trong Phúc Âm sao? Cũng như các nơi khác Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta cầu nguyện, ăn năn đền tội cho kẻ có tội ăn năn trở lại.
HOÁN CẢI. “Các con yêu dấu! Hãy hoán cải khi vẫn còn thời gian. Đừng chờ đợi dấu hiệu xảy ra vì các con không có thời giờ, e rằng quá trễ cho những ai thiếu lòng tin. Hãy hoán cải, Mẹ xin các con hãy hoán cải. Đã có nhiều người hoán cải nhưng chưa được hết mọi người. Mẹ sẽ chịu đau đớn cho các con, song các con phải hoán cải, Mẹ sẽ van xin Con của Mẹ không trừng phạt các con. Các con không hiểu được chương trình của Thiên Chúa, và các con cũng không thể hiểu được Thiên Chúa sẽ làm những gì. Mẹ không đòi hỏi gì hơn là hoán cải ngay bây giờ. Hãy từ bỏ mọi sự đừng để ý tới vật chất thế gian. Hãy nói cho thế giới biết đừng chờ đợi, hãy quay về gấp vì đây là thời gian ân sủng. Chỉ có một lời Mẹ muốn nói với các con là hòa giải, hoán cải, cầu nguyện và ăn chay.”
CẦU NGUYỆN. Ngày 13/9/84, Mẹ ban sứ điệp: “Các con yêu dấu! Mẹ vẫn luôn cần lời cầu nguyện của các con. Chắc các con lấy làm ngạc nhiên tự hỏi, không biết cần bao nhiêu lời cầu nguyện như thế để làm gì? Nhìn xung quanh đi, các con sẽ thấy tội lỗi con người tràn ngập trái đất. Bởi vậy, hãy cầu nguyện để Chúa Giêsu chiến thắng. Cám ơn..”
Mẹ không ngừng kêu gọi mọi người cầu nguyện: “Hãy sống đời sống cầu nguyện để sự cầu nguyện trở nên niềm vui cho các con.” “Mẹ yêu cầu các con cầu nguyện bằng trái tim, các con có thể làm mềm những trái tim băng đá và tất cả những chướng ngại đều biến theo, và sự hoán cải sẽ dễ dàng hơn, nhất là những người tới Mễdu.” “Khi các con cầu nguyện, các con sẽ trở nên đẹp đẽ hơn, các con sẽ giống như một cánh hoa sau trận tuyết, nó phô ra nét đẹp rực rỡ của nó. Bởi vậy hãy cầu nguyện và mở tâm hồn ra cho Chúa để Ngài biến các con nên thánh thiện và đẹp như một cánh hoa. Có những người Kitô Hữu không còn đức tin nữa vì họ không cầu nguyện. Đức tin không thể sống nếu không có lời cầu nguyện.”
Hầu như sứ điệp nào Mẹ cũng năn nỉ chúng ta cầu nguyện, vì Mẹ hiểu được tầm quan trọng của nó trong cuộc sống chúng ta. Khi cầu nguyện là lúc chúng ta được hiệp thông với Chúa; là con đường giúp ta gần gũi Chúa và trở nên thánh thiện hơn; nó cũng là phương cách giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa, tâm sự với Ngài những vui buồn sướng khổ của chúng ta như một đức trẻ với một người cha nhân từ. Cầu nguyện là chìa khóa mở kho tàng ơn thánh. Chúng ta không thể sống mà không cầu nguyện. Một mảnh đất khô cằn, cây cối không thể đơm bông kết trái. Muốn cây đơm bông kết trái chúng ta phải tưới tắm, phân bón, cắt lá, tỉa cành, bắt sâu trừ bọ. Linh hồn chúng ta cũng vậy chẳng khác gì một cây bông. Không có sự cầu nguyện mảnh đất linh hồn sẽ khô cằn, vì tội lỗi sẽ đầy rẫy, chúng sẽ ăn mòn linh hồn chúng ta và từ đó nó sẽ tàn úa. Thánh Anphongso, tiến sĩ Hội Thánh cũng nói: “Không cầu nguyện sẽ mất linh hồn.” Thiếu sự cầu nguyện là thiếu ơn Chúa. Trên đời này không ai ân cần, thương lo, hiểu biết chúng ta hơn Thiên Chúa vì người là Cha chúng ta.
THÁNH LỄ. “Các con yêu dấu! Thánh Lễ là lời nguyện cao siêu hơn cả, các con không thể hiểu nổi, bởi vậy hãy dọn mình xứng đáng và khiêm nhường. Hãy tới với Chúa trong giờ Thánh Thể vì ở đó luôn luôn có sự hiện diện của Mẹ, các con sẽ được muôn vàn ơn sủng đổ xuống cho các con. Một cánh hoa không thể thiếu nước cũng như các con không thể thiếu những chúc lành và ân sủng của Ngài. Các con phải xin Chúa chúc lành cho mỗi ngày, xin Ngài che chở cho từng ngày khỏi cạm bẫy.”
Trên đời này không có gì cao quí hơn thánh lễ vì cuộc tử nạn năm xưa trên đồi Canvê lại được tái diễn trên bàn thánh. Nơi đó, Thiên Chúa chí tôn, chí thánh, hiện diện trong tấm bánh nhỏ để làm của ăn cho linh hồn chúng ta trong cuộc sống lưu lạc trần thế.
Mẹ nói: “Các con yêu dấu! Mẹ kêu gọi các con sống Thánh Lễ. Nhiều người trong các con đã nhận thức được sự cao cả của Thánh Lễ, nhưng lại có người tới dự lễ một cách miễn cưỡng. Hỡi các con, Mẹ đã chọn các con, và Chúa Giêsu sẽ ban muôn ơn sủng của Người xuống cho các con trong Thánh Lễ. Bởi vậy, hãy sống Thánh Lễ một cách ý thức. Hãy làm cho mỗi lần đến dự Thánh Lễ là một niềm vui. Hãy đến trong yêu thương và đón nhận Thánh Lễ. Cám ơn…” Đức Mẹ muốn chúng ta dọn mình cho đàng hoàng trước Thánh Lễ để xứng đáng đón Chúa vào lòng.
LẦN HẠT. Mẹ nhắn nhủ chúng ta lần hạt ngày 3 chuỗi: Năm Sự Vui, Thương, Mừng.
Ngày 25/6/85: “Các con yêu dấu! Mẹ yêu cầu các con hãy lần chuỗi Mân Côi. Với sự lần hạt, các con sẽ thắng mọi quấy phá mà Satan đang cố gắng gây ra cho Giáo Hội. Hãy bảo các linh mục lần hạt. Hãy dành thì giờ cho sự lần hạt. cám ơn sự hưởng ứng của các con.” Và, “Các con yêu dấu! Hãy khoác lấy áo giáp để chống lại Satan bằng cách lần chuỗi Mân Côi. Với chuỗi Mân Côi trong tay, các con sẽ chiến thắng nó. Cám ơn sự hưởng ứng của các con.” (8/8/85) Bên Mễdu, trước thánh lễ ban chiều, giáo dân thường lần ba chuỗi: Vui, Thương, Mừng.
Trong các kinh nguyện, không có kinh nguyện nào Đức Mẹ thích hơn là chuỗi Mân Côi. Mẹ kêu gọi chúng ta lần hạt mỗi ngày, nhất là lần chung trong gia đình. Khi lần hạt, chúng ta suy gẫm về cuộc đời Chúa Giêsu, từ lúc Người xuống trong cung lòng Đức Mẹ cho tới lúc Người về trời. Trong chuỗi Mân Côi chúng ta đọc lại lời cầu nguyện của chính Chúa Giêsu đã dạy khi Người tại thế, đó là kinh đơn giản nhất nhưng lại thâm thúy nhất, trong dó bao gồm đủ mọi sự cần thiết cho đời sống linh hồn chúng ta. Khi lần hạt, chúng ta mượn lời của Thiên Thần chào Mẹ. Chúng ta cũng lập lại lời Thiên Thần dạy 3 trẻ ở Fatima để cầu cho các linh hồn. Hơn thế nữa, chuỗi Mân Côi quyền năng vô hạn, ma quỉ không thích khi chúng ta lần chuỗi Mân Côi.
ĂN CHAY. Mẹ không ngừng thôi thúc: “Mẹ xin mọi người hãy cầu nguyện với Mẹ trong những ngày này. Cầu nguyện nhiều hơn nữa. Ăn Chay nghiêm túc Thứ Tư và Thứ Sáu bằng bánh mì và nước lạnh. Chỉ trừ những người bệnh hoạn mới dược miễn ngoài ra không ai đuợc miễn. Giáo Hội ngày nay đã quên đi sự chay tịnh. Mẹ kêu gọi các con hãy ăn chay và cầu nguyện bằng trái tim các con.” (14/8/84). Mẹ nói:
- Ăn chay có thể ngăn chận chiến tranh và đình chỉ luật tự nhiên.” ( 21/6/82).
- Ăn chay sẽ giảm được sự trừng phạt của Thiên Chúa.” (6/11/82)
- Ăn chay là binh khí đầy quyền lực để đánh bại Satan. Năng lực nguyên tử cũng không thể so sánh được. Năng lực nguyên tử không có sức mạnh để khuất phục Satăng. (25/6/1992)
- Bánh mì và nước lạnh là phương thức ă n chay tốt nhất. (21/7/82)
Và còn rất nhiều điều khác nữa Đức Mẹ dạy về chay tịnh. Bên Mễdu, người dân bản xứ ăn chay bằng bánh mì và nước lạnh. Trong mùa Chay họ thường ăn suốt 40 ngày liền.
Ăn Chay và cầu nguyện là hai việc rất cần thiết trong đời sống Kitô Hữu. Chay tịnh giúp chúng ta kết hợp với Thiên Chúa và anh em đồng loại cách dễ dàng hơn. Hơn thế nữa chay tịnh giúp chúng ta dẹp bỏ những dục vọng và loại bỏ những thặng dư trong cơ thể. Mẹ dạy những ngày chúng ta ăn chay đừng coi đó làm đau khổ mà hãy coi đó như những ngày thanh tẩy bản thân. Ivan nói, cầu nguyện mà không ăn chay giống như người chiến sĩ ra trận vũ trang song chỉ có một chân. Trong Phúc Âm các Tông Đồ hỏi Chúa tại sao các ông không trừ được quỉ, và Chúa trả lời, muốn trừ nó phải ăn chay cầu nguyện đó sao.
THÁNH KINH. Mẹ kêu gọi chúng ta phải đọc Thánh Kinh mỗi ngày, chiêm niệm Lời Chúa mỗi ngày. Đem Lời Chúa vào đời sống chúng ta và sống Lời Chúa, bước theo chân Người. Thánh Kinh là Lời Chúa Hằng Sống, đọc Thánh Kinh mỗi ngày chúng ta sẽ gần Chúa hơn, giống Chúa hơn.
Ngày 18/10/84, Đức Mẹ ban ra một sứ điệp: “Các con yêu dấu! Bữa nay, Mẹ yêu cầu các con hãy đọc Thánh Kinh trong gia đình mỗi ngày, và nên để nó vào nơi có thể thấy được, để nó nhắc nhở các con đọc mà cầu nguyện. Cám ơn..” “ Đọc Thánh Kinh mỗi ngàỳ và suy gẫm nghiêm chỉnh đoạn Phúc Âm của Thánh Mathêu “6, 25-34”. Chương này nói về sự tín thác hoàn toàn cho Chúa. Mẹ kêu gọi chúng ta phải có niềm tin vững mạnh vào Chúa Quan Phòng, vì Ngài là Cha chúng ta. Chúng ta phải tuyệt đối phó thác vào tình yêu và Lòng Thương Xót của Ngài.”
XƯNG TỘI. “Tây Phương đã đánh mất Thiên Chúa, họ hành động như họ là đấng tạo hóa và bỏ quên Thiên Chúa. Mỗi tháng xưng tội một lần sẽ chữa lành Giáo Hội Tây Phư ơng. Giáo Hội sẽ được lành nếu mọi người chịu xưng tội một tháng một lần.”
Trong cuốn Nhật Ký của Thánh Faustina nói về Lòng Thương Xót. Thánh nữ viết: “Tòa cáo giải đối với Thiên Chúa là một phép lạ cả thể của Lòng Thương Xót. Mỗi lần ta đi xưng tội với đức tin và tâm tình xám hối ăn năn thì cả Thiên Đàng và Hỏa Ngục đều bàng hoàng chấn động trước sự đổ trào ‘Lòng Thương Xót của Thiên Chúa’ đầy bao dung tha thứ. Chúa nói với thánh nữ: “Khi con xưng tội, Máu và Nước từ mạch xót thương này tuôn ra từ Trái Tim Ta trào xuống trên linh hồn con. (1602) Trong Tòa Án Xót Thương, (tòa giải tội) những phép lạ xảy ra không ngừng..(1448) Và nơi đây, những linh hồn khốn khổ gặp gỡ Thiên Chúa của Xót Thương. Hãy tới dưới chân vị đại diện của ta, Chính Ta đợi con ở đó. Ta ẩn mình dưới vị linh mục, Chính Ta hành động trong hồn con…(1602) Con hãy xưng tội trước mặt ta. Vị linh muc chính là màn che cho Ta; đừng thăm dò xem đây là vị linh mục nào mà Ta đang sử dụng. Hãy mở tâm hồn ra xưng tội với Ta, và ta sẽ chiếu tràn ngập ánh sáng của ta trong con. (1725) Cho dù một linh hồn giống như xác chết tan rữa, theo con mắt loài người thì không thể có hy vọng phục hồi, mọi sự coi như đã tiêu tan nhưng đối với Thiên Chúa lại không vậy. Phép lạ Lòng Thương Xót Chúa sẽ phục hồi lại linh hồn đó một cách toàn diện, vì từ nguồn mạch xót thương này mà các linh hồn đến múc lấy ân sủng độc nhất là – lòng tín thác cậy trông. Nếu sự trông cậy của họ càng nhiều thì lòng khoan dung của Ta sẽ không giới hạn.’ (1448)
Thị nhân Marija Pavlovic cũng đã kể một câu chuyện như sau: “Một lần đang khi cầu nguyện, tôi thấy một bông hoa rất đẹp. Lúc đầu thấy nó đầy mầu sắc tươi thắm, tôi rất vui mừng nhưng bỗng dưng cánh hoa héo úa, mất đi mầu sắc tươi đẹp làm tôi thật buồn. Sau đó tôi thấy có một giọt nước nhỏ xuống trên cánh hoa héo đó, và rồi nó lại tươi đẹp như lúc ban đầu. Tôi ráng tìm hiểu xem cái thị kiến đó có nghĩa gì nhưng tôi không hiểu nổi. Tôi quyết định đem câu chuyện đi hỏi Đức Mẹ khi người hiện ra chiều hôm đó thì Mẹ trả lời: “Trái tim các con giống như một bông hoa. Mỗi một linh hồn đều rất đẹp, nhưng khi các con phạm tội thì linh hồn các con cũng héo úa giống vậy, vẻ đẹp của nó sẽ không còn nữa. Nhưng chỉ cần một giọt nước của bí tích hòa giải nó sẽ đem lại cho linh hồn các con sự tươi mát và vẻ đẹp như cũ.”
Bởi vậy, bí tích hòa giải vô cùng cần thiết cho chúng ta mỗi khi lầm lỡ để chúng ta lại được hàn gắn với Chúa; và để cho linh hồn chúng ta lại đẹp, lại tinh tuyền như khi chúng ta mới chịu phép rửa tội. Mẹ cũng dạy là khi xưng tội về rồi phải sửa đổi thành con người mới, không thể xưng xong rồi đâu lại hoàn đó.
Sự kiện Đức Mẹ hiện ra ở Mễdu cho tới nay đã có mấy chục triệu người từ năm châu bốn bể đổ về cái thôn xóm xa xôi hẻo lánh này. Những thành phần tới đây bao gồm cả hồng y, giám mục, linh mục, đủ mọi sắc tộc, tôn giáo. Đã có biết bao nhiêu linh hồn đuợc ơn ăn trở lại khi đi tới đó và khi về hoàn toàn đổi mới. Họ sống và thực hành sứ điệp của Mẹ cũng như lập các nhóm cầu nguyện để làm tông đồ cho Mẹ. Và cũng biết bao bệnh tật được chữa lành. Biết bao hiện tượng siêu phàm xảy ra. Nơi đây là một ốc đảo bình an, ai tới đó cũng được nếm cái mùi vị an bình mà không đâu có được. Đa số những người viếng thánh địa này đều trở lại đó, không phải một lần mà nhiều lần. Nơi đây không khí tôn nghiêm thánh thiện. Từ thánh đường Giacôbê dẫn lên ngọn núi Thánh Giá; xuống tới ngọn đồi Pônđô đâu đâu cũng vang tiếng kinh nguyện cả ngày lẫn đêm.
Hiện tại Mễdu chưa được Giáo Hội chấp nhận là vì Đức Mẹ vẫn còn hiện ra hằng ngày với các thị nhân. Giáo Hội chỉ chính thức điều tra và công nhận khi nào sự việc đã chấm dứt. Nhưng mà mỗi người có quyền tự do tin hay không tin sự kiện Đức Mẹ hiển linh nơi đây. Đức Mẹ nói với các thị nhân: “Mẹ sẽ để lại một dấu hiệu vĩnh viễn trên đồi Pônđô, để chứng thực cho thế giới biết Mẹ đã tới đây. Dấu hiệu này sẽ thấy được nhưng không sờ mó được; và không có gì phá hủy được. Nó sẽ làm cho rất nhiều người được ơn trở về, và nhiều bệnh tật được chữa lành.” Dù gì đi nữa chúng ta cũng phải công nhận kết quả của 25 năm nay. Mễdu chính là dòng sông thánh thiện đã sinh ra bao trái ngọt hoa thơm; và cũng đã đơm bông kết trái trên khắp trái đất; đem lại biết bao con chiên lạc trở về con đường ngay nẻo chính.
ĐỨC CỐ GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLỒ II ĐỐI VỚI MỄ DU.
Mặc dù chưa được Giáo Hội chính thức chấp nhận nhưng vị cố Giáo Hoàng Gioan Phaolồ II đã từng lên tiếng: “Nếu ta không là Giáo Hoàng, Ta đã đến Medjugorje rồi.” “Mễdu là Fatima nối dài.” Đây là lời Ngài đã nói với Đức Giám Mục Hnilica năm 1984. Biết bao lần ngài phát biểu cách thiện cảm về Mễdu, khi các linh mục và các nhóm tín hữu đến yết kiến và thông báo cho ngài về Mễdu. Vị đại diện của Đức Kitô, một con người luôn luôn chú ý tới diễn tiến lịch sử. Ngài không khi nào tỏ ra ngần ngại khi giãi bầy lòng yêu mến và biết ơn của ngài đối với sứ điệp Mễdu. “Hãy bảo vệ Mễdu.” Ngài đã nói như vậy với cha Jozo Zovko. Không những ngài bày tỏ cảm tình của ngài đối với Mễdu mà nhiều lần ngài còn mong muốn tới Mễdu.. Đức Hồng Y Gray ở Edinburgh nói: “Tôi biết Đức Giáo Hoàng, theo tư cách riêng đã chấp nhận các cuộc hiện ra ở Mễdu.” Đức Cố Giáo Hoàng đối với Mễdu lòng đầy thiện cảm.
Để kết thúc bài này, chúng ta hãy lắng nghe, và suy niệm những lời nhắn nhủ của Mẹ (ở đây chỉ tóm tắt một ít sứ điệp của Mẹ mà thôi, không thể viết hết ra được). Ngày xưa ở Fatima Mẹ nhắn nhủ vài ba lần, nhưng ở Mễdu không phải vài ba lần mà cả ngàn lần. Những sứ điệp của Mẹ như thác lũ tuôn xuống cho nhân loại:
“Các con yêu dấu! Hãy dâng hiến bản thân các con cho Mẹ để Mẹ dẫn giắt và che chở các con. Mẹ kêu gọi các con cầu nguyện với Chúa Thánh Linh. Khi các con đau khổ hay cần gì hãy tới với Mẹ. Mẹ sẽ cầu xin Chúa Thánh Linh cho các con. Đừng lo lắng gì, hãy để sự bình an trong tâm hồn các con, phiền phức là do Satan. Nó luôn luôn chen vô đời sống của các con. Những ai thuộc về Thiên Chúa, sẽ là đối tượng để nó tấn công. Các con hãy tôn thờ Trái Tim Cực Thánh Chúa đang bị xúc phạm cùng cực vì tội lỗi nhân loại. Các con yêu dấu, Mẹ là mẹ của các con. Mẹ tới trái đất này để dạy các con sống yêu thương và cầu nguyện với yêu thương. Hãy mở trái tim các con ra cho Chúa giống như một cánh hoa trong mùa xuân mở đón nắng hồng. Mẹ muốn các con tới gần Chúa Cha, để ngài ban cho các con vô vàn ân sủng. Các con hãy nói với Thiên Chúa, các con yêu Người. Với tình yêu các con sẽ đoạt được tất cả, ngay cả những việc mà các con nghĩ không thể được. Các con mang thánh giá nặng nhưng đừng sợ vác lấy nó. Qua thánh giá các con sẽ làm vinh danh Thiên Chúa. Mẹ yêu thương các con ngay cả khi các con xa lìa Thiên Chúa và Mẹ. Mẹ van xin các con chớ để cho Trái Tim Mẹ khóc bằng máu bởi tội lỗi loài người. Hãy hứa với Mẹ đừng bao giờ xúc phạm tới Chúa Giêsu và đừng bao giờ xỉ nhục Ngài. Mẹ mong mỏi các con hãy nghiêm chỉnh đón nghe những sứ điệp của Mẹ, và sống bằng những sứ điệp của Mẹ. Satan cố tình muốn phá Giáo Hội, nó tới trước ngai Thiên Chúa và xin phép cho được phá Giáo Hội trong 100 năm, và Thiên Chúa đã cho phép nó. Bởi vậy, thế kỷ này là thế kỷ quyền lực của Satan. Nhưng khi điều bí mật được tỏ ra ở Mễdu thì quyền lực của nó sẽ mất. Hiện tại nó đã bị mất quyền lực, bởi vậy nó rất bực bội và càng có dã tâm lôi kéo các linh hồn hơn nữa bằng cách phá hoại các gia đình; gây ra những chết chóc giết người. Để tránh xa những tội lỗi này các con phải ăn chay, cầu nguyện, lập nhóm cầu nguyện. Luôn luôn mang trong mình một tượng ảnh để chứng tỏ các con thuộc về Thiên Chúa, có như vậy các con mới được Thiên Chúa che chở. Giữ những đồ vật làm phép trong nhà để các con bớt bị Satan cám dỗ. Các con yêu dấu, đừng để Satan làm chủ tâm hồn và đời sống các con. Mẹ kêu gọi các con hãy sống đời sống Chúa Giêsu để dem ánh sáng cho cái thế giới không trung tín đang bước đi trong bóng tối sự chết. Các con là những kẻ được gọi đi trong ánh sáng, hãy sống trong ánh sáng và đem ánh sáng tới cho mọi người. Nếu các con từ bỏ dược TV thì tốt nhất vì nó làm cho mất thời giờ; hơn nữa khi các con coi TV, các con không còn nhớ tới Chúa nữa, các con cũng không thể cầu nguyện. Hỡi các con, đó là ước muốn và sứ mệnh của Mẹ trên trái đất này. Mẹ muốn các con hiểu rằng cuộc sống trên thế gian này quá ngắn ngủi so với cuộc sống vĩnh cửu trên Thiên Đàng. Mẹ cám ơn Chúa đã cho Mẹ ở bên các con. Đây là thời gian mà Chúa ban đầy ân sủng cho những ai mở trái tim ra đón nhận ơn Ngài. Mẹ chúc lành cho các con và theo sát các con trên mọi bước đường. Nếu các con hiểu được Mẹ yêu thương các con cỡ nào thì các con có thể khóc vì sung sướng.”
Để giúp Mẹ hoàn tất chương trình của Chúa, chúng ta hãy giúp Mẹ bằng cách cầu nguyện, mở tâm hồn ra cho Chúa, và nghiêm chỉnh đón nghe Lời Mẹ nhắn nhủ ủy thác, kêu gọi, van nài, và sống sứ điệp Mẹ. Mỗi người Công Giáo đều có thể là tồng đồ của Mẹ, chúng ta có bổn phận phải rao truyền sứ điệp của Mẹ cho mọi người cùng được hưởng những ơn sủng của Người. Lời Mẹ là Lời Chúa đư ợc dẫn giải và áp dụng cụ thể vào đời sống của chúng ta trong thế giới ngày nay. Như Mẹ dạy chúng ta phải đem ánh sáng của Thiên Chúa tới trong bóng tối.
Sứ điệp ngày 8/5/86: “Các con yêu dấu! Các con có trách nhiệm về những sứ điệp này. Nguồn ân sủng là đây. Và các con là những chiếc xe chuyên chở tặng phẩm này cho kẻ khác. Bởi vậy, Mẹ kêu gọi các con hãy làm việc với tinh thần trách nhiệm. Mỗi người đều có trách nhiệm tùy theo khả năng của mình. Các con yêu dấu! Mẹ kêu gọi các con hãy trao tặng phẩm ấy cho những kẻ khác với tình yêu thương chứ đừng giữ cho riêng mình. Cám ơn sự hưởng ứng của các con.”
Hà Thuận
|