MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Collapse <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: đề mục chính :: lịch sử
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Chuyến Hải Trình Định Mệnh
Thứ Hai, Ngày 2 tháng 2-2009

Chuyến Hải Trình Định Mệnh

Ðịch ngưng pháo kích khi tia sáng đầu ngày bắt đầu le lói trên hàng
cây dừa nước hai bên bờ sông. Tôi liên lạc máy với toán kích đang nằm
tại hướng hạ giòng và được biết địch cũng vừa ngưng pháo vào Căn cứ
Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè và vẫn chưa thấy địch tấn công bằng đường bộ.
Tôi gọi máy cho vị Sĩ quan Chỉ huy Giang đoàn bạn và thông báo cho
biết là tôi sẽ trở về Căn cứ để thám sát tình hình và tái phối trí đơn
vị. Trời đã bắt đầu sáng hẳn khi đoàn chiến đỉnh cặp bến tàu Căn cứ
vào lúc gần 0700 giờ ngày 30 tháng 4. Nhân viên lần lượt đổ bộ lên bờ
và được lệnh ra các vọng gác.

Nhìn cảnh điêu tàn của đơn vị, lửa vẫn còn cháy tại những nhà kho, nhà
máy đèn tan tành, đổ nát vì bị địch pháo hỏa tiển 122 ly suốt đêm qua,
tôi cảm thấy bâng khuâng nhưng vẫn giữ vững niềm tin là đơn vị còn
đứng vững để tiếp tục chiến đấu. Tôi lệnh cho Sĩ quan Truyền tin phá
hủy những tài liệu không cần thiết và cố gắng gọi máy liên lạc với Bộ
Tư lệnh Hải quân. Tôi hy vọng Bộ Tư lệnh Hải quân vẫn còn đứng vững và
mong có thể liên lạc được với những Sĩ quan thâm niên hiện diện, đang
ở lại tử thủ như cá nhân tôi, để nhận chỉ thị cần thiết.

Sau khi đi duyệt qua tình hình Căn cứ, tôi trở về phòng hành quân và
nhận được báo cáo là Sài Gòn đang rối loạn, Bộ Tư lệnh Hải quân không
trả lời máy. Tôi phân vân rồi ra lệnh mở kho thực phẩm để phân phối
cho các đơn vị bạn và các Giang đoàn đang triệt thối về đây. Những
chiến đỉnh thuộc nhiều đơn vị khác nhau như là Liên đoàn Tuần Thám,
Phóng Thủy Hỏa, Thủy Bộ, Xung Phong, Trục Lôi... tất cả hơn 100 giang
đỉnh không có Ðơn vị trưởng đang xin tạm trú tại nơi này.

Khoảng 10 giờ sáng lúc vừa quay về Bộ chỉ huy, bỗng nhiên tôi nghe
tiếng chân người chạy rộn rịp, tiếng máy xe Honda và xe Vespa nổ ồn
ào. Nhân viên của tôi đang đùng đùng bỏ hàng ngũ, vất lại súng đạn và
chạy ra phía cổng chánh. Tôi ra lệnh chận lại để tìm hiểu lý do và
được báo cáo là nhân viên mở radio, nghe nói Sài Gòn rối loạn, họ sợ
gia đình vợ con thất lạc nên mọi người xin phép được trở về lo cho gia
đình.

Thế là hết, không ai còn tinh thần để ở lại chiến đấu nữa, mà họ chiến
đấu cho ai ở giờ phút này, trong khi những cấp chỉ huy khác đã đưa vợ
con ra ngoại quốc rồi chạy theo ra biển thoát nạn. Tôi thở dài chán
nản và cảm thấy niềm uất ức dâng tràn lên trong tim. Chỉ trong khoảng
khắc đơn vị đã trở nên một bãi vắng bóng người, chỉ còn lại súng ống
bỏ lại đầy trên nền đất lạnh. Tôi ngước mặt nhìn trời, nước mắt tuyệt
vọng chảy dài xuống má.

*****

Trời đổ mưa ào xuống khi chiếc tàu đánh cá chạy ngang qua ngã ba sông
Nhà Bè, một hướng chảy về Cát Lái, một ngã xuôi ra sông Lòng Tào, Soài
Rạp. Người tỵ nạn đứng ngồi trên sàn tàu, chen chúc nhau dưới các tấm
ny lông, thân hình co ro với chiếc áo mưa, trong khi gió sông thổi
mạnh phía sau lái, làm tăng tốc lực thêm cho con tàu đi biển loại nhỏ.
Các quân nhân Lôi hổ, hờm sẵn súng tiểu liên, phóng lựu M79, hướng về
mặt sông, nơi thuyền bè của dân di tản đang xuôi ra biển Vũng Tàu.

Trận mưa đám mây không kéo dài lâu lắm, gió mạnh đã bắt đầu dịu xuống
và bầu trời trở nên quang đảng, ánh nắng buổi xế trưa lại le lói xuyên
qua các vầng mây xám đen, đang bay về phương trời xa. Từ hướng kho
xăng Nhà Bè, hàng chục chiến đỉnh Hải quân thuộc các Giang đoàn Xung
Phong, Thủy Bộ, Trục Lôi... đang chậm rãi giang hành về hướng Sài gòn.
Mọi người trên chiếc tàu đánh cá thắc mắc, không lẽ cấp Chỉ huy của
toán chiến đỉnh này không biết gì về việc Tướng Dương văn Minh đầu
hàng, Sài Gòn đã thất thủ và Bộ Tư lệnh Hải quân đã bị Việt Cộng vào
chiếm rồi hay sao? Lúc bấy giờ đã hơn 12 giờ rưởi trưa, một vài người
khoác tay về phía các giang đỉnh đang dẫn đầu, ra hiệu cho các thủy
thủ mặc quân phục tác chiến, áo giáp, nón sắt. Dân di tản muốn liên
lạc và bảo những chiến hữu này hãy quay tàu chạy ra biển, thay vì tiếp
tục về hướng Sài Gòn.

Phía trước mặt bên tả hạm, có vài chiếc tàu cũng lớn xấp xỉ bằng tàu
đánh cá này. Các nhân viên trên vài chiến đỉnh loại nhỏ của Liên đoàn
Thủy Bộ và Tuần Thám có lẽ như đã nhận hiểu thủ hiệu. Họ quay chiến
đỉnh trở lại, và lái tàu chạy theo sau những tàu đánh cá, rồi một vài
người trong thủy thủ đoàn cổi áo giáp, đeo các sợi dây thừng, leo lên
tàu lớn và bỏ lại chiến đỉnh trôi bập bềnh trên sông. Cũng như nhiều
quân nhân Hải quân không có gia đình ở Sài Gòn, những thủy thủ này đã
quyết định theo các tàu thuyền di tản, vì thấy mọi người đều bỏ quê
hương ra đi.

Tôi ở trên soái đỉnh của Giang đoàn Thủy Bộ và đang cùng đoàn chiến
đỉnh gần 50 chiếc, hải hành về trình diện Bộ Tư lệnh Hải quân tại bến
Bạch đằng. Cô Y tá thuộc Bệnh viện của Căn cứ báo cáo cho tôi, về việc
Tướng Minh đã đầu hàng quân Cộng sản miền Bắc cũng như ông vừa ra lệnh
tất cả các đơn vị thuộc Quân lực Việt Nam Cọng Hòa buông súng và ngưng
chiến đấu. Tôi sững sờ, không tin những gì đang nghe, rồi nghẹn ngào
uất ức và đau buồn dâng tràn trong tim.

Khi chiếc tàu đánh cá chạy ngược chiều với chiếc chiến đỉnh trang bị
hải pháo và pháo tháp nặng nề này, Ðại tá Ch. là một Sĩ quan Hải quân
ngành Cơ khí, người chỉ huy tàu đánh cá, ra lệnh chuẩn bị ngừng tàu
lại. Ông ấy vừa nhận ra người bạn Hải quân, một Sĩ quan cấp bậc Trung
tá ngành chỉ huy, thuộc Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận Nhà Bè, đang đứng trên
boong soái đỉnh.

Ông dùng loa nói chuyện và thông báo tình hình cho tôi, Ðại tá Ch. cho
tôi biết về tình trạng rối ren tại Sài Gòn và chấp thuận cho gia đình
tôi quá giang, đồng thời yêu cầu tôi giúp ông ta đưa tàu này ra biển.
Vì người tài công có nhiệm vụ lái tàu, phút cuối đã không đến được và
cho đến bây giờ trên tàu không có dụng cụ hải hành, bản đồ... và chỉ
có một la bàn từ dùng cho việc định hướng lái tàu. Sài Gòn đã mất vào
tay Cộng sản và không còn gì để tiếp tục chiến đấu nữa cả. Sau một hồi
đắn đo suy nghĩ, như người mất hồn, tôi gọi máy hỏi ý kiến thuyền
trưởng các chiến đỉnh và tất cả đều khuyến khích tôi nên cùng gia đình
theo tàu đánh cá ra khỏi vùng lửa đạn. Họ đồng ý và hứa với tôi, sẽ
tìm phương tiện để đưa gia đình của họ, đang còn kẹt ở Sài Gòn, di tản
ra biển tìm Tự do. Tôi ngậm ngùi chào từ giã các chiến hữu thân mến đã
cùng tôi tử thủ và chiến đấu suốt đêm qua, chúc mọi người gặp nhiều
may mắn. Sau đó tôi đưa vợ tôi, Minh và bốn đứa con đang còn nhỏ, lên
chiếc tàu đánh cá rồi phụ giúp Ðại tá Ch. vận chuyển tàu giang hành
ngang qua kho xăng Nhà Bè.

Từ xa một cột khói đen bay lên cao từ hướng Căn cứ Yểm trợ Tiếp vận,
suốt đêm bị địch pháo kích phá hủy tan tành và gây nên những đám cháy
dữ dội. Tàu ngưng máy một lúc để chúng tôi đón vài nhân viên Hải quân
thuộc Căn cứ Yểm trợ này lên. Sau đó mọi người trên tàu đánh cá quyên
góp tiền Việt Nam mà họ còn mang theo, nay đã trở thành vô giá trị đối
với người di tản, chuyền xuống các chiến đỉnh cho các thủy thủ, hoặc
vì lý do này hay lý do khác, quyết định ở lại với gia đình và quê
hương. Các người Tàu đưa hết những xấp giấy 1000 đồng cho quân nhân
Hải quân với tất cả tấm lòng. Nhân viên giang đỉnh cũng cảm động cám
ơn, rồi họ mang ra ba bốn bao gạo, vài thùng mì gói tặng cho người di
tản. Họ ngậm ngùi chúc nhau nhiều may mắn và biết đây là lần đầu tiên
họ gặp nhau và cũng là lần cuối. Các thuyền trưởng chiến đỉnh đưa cho
vị Chỉ huy cũ của mình vài bản đồ khu vực sông Lòng Tào, từ Soài Rạp
ra đến Vũng Tàu, loại bản đồ hành quân của đơn vị Bộ binh. Họ còn cho
tôi biết là chiếc thương thuyền Việt Nam Thương Tín bị Việt Cộng chận
bắn trên sông Lòng Tào khoảng nửa giờ trước đây, vào lúc 1 giờ 30
chiều, một số người bị tử thương, trong số đó có nhà văn Chu Tử. Khi
nghe được tin này, Ðại tá Ch. và tôi quyết định thay đổi giang trình,
thay vì dùng sông Lòng Tào chật hẹp dễ bị tấn công bởi quân Cộng sản,
tôi sẽ vận chuyển tàu theo lộ trình sông Soài Rạp, mặc dù khó hải hành
nhưng vì sông rất rộng nên có thể tránh được nguy hiểm và an toàn hơn.

Trên sông tàu thuyền tấp nập với những tàu chở hàng LCU của Quân vận,
ghe đánh cá dân sự, Giang tốc đỉnh PBR thuộc các Liên đoàn Tuần Thám,
phăng phăng rẽ dòng nước đục ngầu, đầy bùn phù sa và rong bèo lẫn lục
bình, cuồn cuộn trôi ra phía vịnh Vũng Tàu. Gió mát thổi từng cơn từ
phía hàng dừa nước hai bên bờ, mặt nước sông như sáng hẳn lên dưới ánh
nắng chiều, lóng lánh ngàn vì sao nhỏ phản chiếu từ giòng sông uốn
khúc. Vài con chim cò, chim vạc với đôi cánh dài nhẹ lướt qua những
lùm cây thấp bên gành, cạnh rừng lau sậy mọc lưa thưa. Thiên nhiên vẫn
bình thản như không có gì thay đổi trước mắt dân di tản. Tuy nhiên mọi
người đã nhận thức rằng kể từ giờ phút này, họ bắt đầu một cuộc đổi
đời mà định mệnh đã làm cho dân miền Nam phải xa lìa quê cha đất tổ và
bỏ lại tất cả những gì quý giá nhất của mình vì không muốn sống dưới
chế độ độc tài Cộng sản. Những việc gì sẽ đến trong giờ phút sắp tới
đều có ảnh hưởng đến cả cuộc đời của người đi tìm ánh sáng Tự do và an
toàn cho cá nhân cũng như gia đình họ.

Tàu tiếp tục giang hành với vận tốc chậm vì lòng sông Soài Rạp thay
đổi, sâu cạn bất thường, nếu không có kinh nghiệm, tàu sẽ bị mắc cạn,
do đó tôi cẩn thận theo sát các chiến đỉnh chạy trước để tránh vùng
nước cạn. Thỉnh thoảng tôi ngừng tàu lại, và đón vớt quân nhân đủ mọi
cấp thuộc các Quân binh chủng di tản trên các tàu nhỏ, chật hẹp, sắp
bị chìm, lên tàu đánh cá này. Từ xa vịnh Vũng Tàu đã thấy xuất hiện về
phía tả hạm với ngọn núi nhô lên cao và ngọn hải đăng trắng xóa nằm
trên đỉnh.

Trên không thỉnh thoảng vài chiếc trực thăng thuộc Không quân Việt Nam
Cọng hòa trực chỉ về hướng đông, có lẽ bay ra Ðệ thất Hạm đội Hoa Kỳ.
Từ trong Căn Cứ Yểm trợ Tiếp vận Cát Lỡ, các chiến đỉnh Hải quân và
Quân vận, chở đầy người tỵ nạn, chen chúc chạy ngang Bãi trước Vũng
Tàu, xuôi ra biển. Về phía nam, các chiến đỉnh thuộc đơn vị Hải quân
từ Vùng 4 Sông Ngòi nối đuôi nhau đổ ra cửa sông. Một vài chiếc cặp
lại bên cạnh các thuyền đánh cá lớn, hay chạy theo các chiến hạm Hải
quân để yêu cầu được quá giang, vì chiến đỉnh của họ quá nhỏ, không
thể đi xa ra biển khơi. Tàu đánh cá của Ðại tá Ch. cũng lại vớt nhiều
gia đình Hải quân trong đám chiến đỉnh này.

Vào khoảng 7 giờ tối, tàu tiếp tục chạy về phía đông nam, sau khi tôi
dùng chiếc la bàn từ để định hướng và lấy ngọn hải đăng trên đỉnh núi
Vũng Tàu làm chuẩn. Dân di tản ngồi chen chúc ngổn ngang trên sàn tàu
nhỏ xíu, phía trước và trên boong thượng phía sau lái, mọi người ngồi
yên tại chỗ, không thể di chuyển đi đâu được cả. Tổng số người đi tìm
Tự do, kể cả người Tàu Chợ Lớn và gia đình, đã lên đến trên dưới 300
người, so với khoảng gần 200 người lúc tàu chạy ngang qua Căn cứ Yểm
trợ Tiếp vận Nhà Bè vào lúc hơn 2 giờ chiều ngày hôm nay.

Mặt trời từ từ lặn xuống sau rừng cây đang đổi qua màu đen thẫm về
phía tây bắc. Chiếc tàu chở đoàn người tỵ nạn, dật dờ, lắc lư trên
những đợt sóng dài giữa biển cả mênh mông, trong một buổi hoàng hôn
màu tím nhạt, bắt đầu buông phủ và bao trùm vũ trụ. Từng tia sáng chớp
lên rồi tắt ngúm từ ngọn hải đăng Vũng Tàu như cây đèn trời giữa đêm
tối, gieo trong lòng người di tản nỗi buồn cô đơn trống vắng. Họ cảm
thấy tủi thân cho số phận mình, những người đi đày như dân Do Thái,
lênh đênh trên chiếc tàu Exodus đi tìm đất thánh ngày xa xưa. Tương
lai và thân phận của người Việt tỵ nạn tựa màn đêm bao quanh họ. Hy
vọng được cứu vớt thật là mong manh như tìm nước uống trên sa mạc, tùy
thuộc vào sự may mắn và định mệnh đẩy đưa.

Khoảng 10 giờ tối khi tàu cách xa bờ biển Vũng Tàu khoảng chừng 20 hải
lý, mọi người đang chập chờn tìm quên qua giấc ngủ sau một ngày tinh
thần căng thẳng và mệt mõi, bỗng họ chợt tỉnh dậy vì nghe tiếng xôn
xao từ phòng lái. Hình như Ðại tá Ch. cho biết có một thương thuyền
lớn thắp đèn sáng trưng phía bên tả hạm cách chừng một hải lý. Ông ra
lệnh tàu tăng máy và hướng về chiếc thương thuyền đó. Khi đến gần, ông
dùng ống loa và kêu gọi vị thuyền trưởng xin được phép tiếp cứu và cho
dân tỵ nạn Cộng sản lên tàu.

Ðây là một thương thuyền Ðại Hàn trên đường về bến tại Hán Thành. Ông
thuyền trưởng thương thuyền đặt loa cho biết là ông không thể cho
người tỵ nạn Việt Nam lên tàu của ông được vì không có phép của công
ty và của chính phủ Ðại Hàn. Họ đang trong tình trạng phân vân chưa
biết phải đối phó thế nào trước tình hình sụp đổ quá nhanh của miền
Nam Việt Nam. Ông thuyền trưởng rất thông cảm và thương hại muốn giúp
người Việt Nam đang gặp hoạn nạn. Nhưng vì vấn đề chính trị mà Quốc
gia ông phải đối phó, chính phủ Ðại Hàn cần thời gian cân nhắc, tìm
đường lối chính trị hợp với họ, trước khi đi đến quyết định trợ giúp
công dân của Việt Nam, một nước trước đây là đồng minh của Ðại Hàn
trong cuộc chiến vừa tàn. Sau khi dứt lời, ông ta cầu chúc Thượng đế
ban phước lành cho mọi người, và hy vọng những thương thuyền của các
nước khác, đã có chỉ thị cho phép nhận người tỵ nạn Việt Nam, sẽ đón
những người di tản lên tàu. Thế rồi chiếc thương thuyền mang quốc tịch
Ðại Hàn đổi hướng đông bắc, trực chỉ về phía đảo Hải Nam, để lại sau
lưng, trên biển một con tàu nhỏ chở đầy những người di tản thất vọng,
đang ngậm ngùi nhận thức được cái giá tủi nhục đầu tiên phải trả khi
bị nhân loại ngoảnh mặt từ chối giúp đỡ.

Bầu trời đầu tháng 5 dương lịch, đầy sao lấp lánh dán trên vòm đen vĩ
đại. Vầng trăng nửa vành tỏa tia sáng nhạt xuống vùng biển Ðông, không
đủ soi đường cho các chiến hạm, tàu đánh cá, ghe Kiên giang, xà lan,
thuyền buồm... đang bập bềnh hướng về phía mặt trời mọc và hy vọng
được cứu giúp bởi người bạn đồng minh Hoa Kỳ.

*****

Trên bầu trời đầy sao lấp lánh, vầng trăng nửa vành treo lơ lửng về
phía tây nam, phía hữu hạm chiếc tàu di tản, đang nhấp nhô đi tìm
những Duyên vận hạm (LCU) hoặc tàu đánh cá lớn chạy bằng dầu cặn bỏ
lại trên biển, để tiếp tế thêm dầu.

Sau một thời gian khá lâu, tiếng gọi từ phòng lái chuyền xuống cho mọi
người biết rằng có thể tàu đã tìm ra LCU của Quân vận hoặc tàu có
nhiên liệu. Sau đó tôi từ từ vận chuyển tàu đánh cá cặp vào một chiếc
LCU, đang trôi bập bềnh trên sóng. Trên tàu này không một bóng người,
không có đèn, tối thui, sàn tàu đầy rẫy va li áo quần, xách tay, dụng
cụ, giày dép vương vãi khắp boong chính. Ðại tá Ch. chỉ thị tổ chức
những thanh niên, nối đuôi thành hàng dài chuyền tay các xô dầu múc từ
hầm chiếc Duyên vận hạm đổ xuống hầm chứa dầu của tàu đánh cá. Công
tác tiếp tế tập thể diễn tiến tốt đẹp dưới ánh sáng của ngọn đèn rọi
từ phòng lái, và tiếng máy rì rầm vang dội trong đêm khuya tỉnh mịch,
tại một vùng biển trời mênh mông.

Công tác lấy dầu từ chiếc Duyên vận hạm lại tiếp tục dưới ánh sáng mờ
ảo của vầng bán nguyệt đang ngã về phương tây, hướng đất Mẹ Việt Nam.
Những ánh đèn bin lập lòe, trên tay các bóng đen như ma trơi, thấp
thoáng im lặng di chuyển, âm thầm với ý nghĩ riêng tư của mỗi người,
đang còn bị ám ảnh bởi sự kiện vừa xảy ra trong chuyến di tản. Tình
người, tình mẫu tử, tình cha con bắt đầu thay biến trong cuộc đổi đời.
Và trong tương lai họ biết sẽ gặp nhiều ngạc nhiên hơn nữa, khi hội
nhập vào đời sống người tỵ nạn tại các quốc gia Tự do với nhiều nhu
cầu vật chất hơn giá trị tinh thần.

Các người Tàu Chợ Lớn lấy vải vóc, tơ lụa, đồ ngủ may sẵn, những áo
quần mà họ dự trù mang theo qua Tân Gia Ba để xử dụng và mua bán, đem
ra phân phát cho thiếụ nữ và các bà vợ dân di tản trên tàu. Những bộ
áo quần thêu tay thật đẹp và đắt tiền này là món quà chia nhau giữa
những người không quen biết, nay cùng chung cảnh ngộ, dù ngôn từ khác
biệt nhưng ánh mắt và cử chỉ đã nói lên lòng ưu ái, nhân hậu của tình
người.

Con tàu di tản cô đơn trên biển cả mênh mông, tách rời chiếc Duyên vận
hạm đang trôi dạt xa dần về phía vô định, tiếp tục hải trình về hướng
đông sau khi lấy thêm những phi nước ngọt chất đầy trên boong thượng.
Ðã gần năm giờ sáng, từ phía chân trời, ánh sáng bình minh đã bắt đầu
nhuộm đám mây hồng, đang lờ lững vắt ngang vũ trụ. Mặt trời hình tròn,
đỏ chói hiện lên dần từ dưới vùng nước xanh, ánh sáng tựa dòng sông,
lóng lánh như vàng, tỏa rực trên đại dương. Từ xa về phía hữu hạm,
bóng dáng con thoi dài một chiến hạm Hoa Kỳ nổi bật lên trên mặt biển
êm như hồ. Mọi người la lên mừng rỡ vì tưởng sắp được tàu Mỹ cứu vớt.
Dân di tản đứng dậy, tay cầm áo quần, khăn tắm, lấy mũ đang đội trên
đầu, ngoắc lia lịa về phía chiến hạm Hoa Kỳ để gây sự chú ý của thủy
thủ đoàn trên chiếc tàu này.

Họ thấy từ xa, vây quanh chiếc Khu trục hạm, cũng có nhiều tàu thuyền
chở đầy dân tỵ nạn, đang cố gắng xin tàu Mỹ cho lên. Khi tiến về phía
Khu trục hạm, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy thủy thủ trên tàu dùng
súng trường M16 bắn chỉ thiên lên trời như xua đuổi không cho ghe
thuyền dân tỵ nạn đến gần. Tất cả đều thất vọng và thắc mắc. Như vậy
là thế nào? Họ tự hỏi, có phải người Mỹ từ chối giúp người di tản
không? Tương lai và số phận của họ sẽ ra sao? Những tin tức về chiến
hạm Ðệ thất Hạm đội chờ sẵn để tiếp đón dân miền Nam Việt Nam là tin
thất thiệt, không đúng sự thật hay sao? Và niềm lo âu trở thành bất
mãn, họ la ó dữ dội để thỏa lòng uất hận. Người Mỹ đểu cáng bỏ rơi
nước Việt Nam, tự động gửi quân qua Việt Nam tham chiến, rồi kéo quân
về nước, và cắt đứt viện trợ năm 1973 làm cho Quân đội mất hết tiềm
năng chiến đấu. Thế rồi Mỹ lại giúp phương tiện cho các cấp chỉ huy
hèn nhát bỏ lại chiến hữu thuộc cấp, cao chạy xa bay ra ngoại quốc làm
suy sụp tinh thần quyết tử của quân dân nhiều lòng yêu nước. Bây giờ
Mỹ lại dùng súng đạn xua đuổi, trở mặt không cứu vớt và giúp đở người
di tản Việt Nam, đang bập bềnh trên sóng nước biển đông.

Trời sáng dần, ghe thuyền dân tỵ nạn không biết từ phương nào tới,
xuất hiện càng ngày càng nhiều, lũ lượt chạy quanh chiếc Khu trục hạm.
Sau một thời gian ngừng máy, có lẽ để báo cáo cho giới chức có thẩm
quyền Hải quân Hoa Kỳ, chiếc Destroyer này vận chuyển, tăng hết tốc
lực, đổi hướng về phía nam. Và bỏ lại sau lưng hàng chục chiếc tàu chở
dân Việt Nam di tản, đang thất vọng, uất ức nhìn theo cột khói đen mờ
dần, rồi khuất hẳn cuối chân mây. Chỉ trong phút chốc chỉ còn những
ghe thuyền đang chơi vơi trên biển. Dân di tản lần lượt lái ghe
thuyền, trực chỉ phía mặt trời mọc, tiếp tục hải trình và nuôi hy vọng
sẽ gặp may mắn hơn.

Mặt trời lên cao, làn gió nhẹ từ hướng đông nam không đủ xoa dịu cơn
nóng oi bức của buổi trưa đầu hè trên biển. Từ xa về hướng đất liền,
mọi người chợt thấy một chiến đỉnh nhỏ của Hải quân, treo cờ vàng ba
sọc đỏ đang phăng phăng tiếng về hướng chiếc tàu đánh cá. Tôi nhận ra
đây là loại Duyên tốc đỉnh (PCF), có lẽ thuộc Hải đội 3 Duyên phòng
tại Vũng Tàu. Quả đúng như vậy, vị Thuyền trưởng, một Trung úy trẻ
tuổi và ba nhân viên cặp vào tàu đánh cá và xin Ðại tá Ch. cho phép
quá giang vì chiến đỉnh nhỏ không thể đi xa ra khơi được. Trung úy
Thuyền trưởng cho biết chiến đỉnh còn dầy dầu, trên dưới 3000 gallons,
vì thế Ðại tá Ch. quyết định cho dòng chiếc tàu này theo, để có đầy đủ
dầu xữ dụng, đề phòng trường hợp phải hải hành qua Phi Luật Tân.

Vào khoảng ba giờ chiều, tàu đang chạy ngon trớn bỗng nhiên vận tốc
giảm dần, rồi tiếng máy tàu nổ vài tiếng nhỏ và ngưng hẳn, mọi người
tiên đoán hình như máy tàu bị trục trặc. Các Sĩ quan cơ khí quá giang
báo cáo cho Ðại tá Ch. là có nước hòa lẫn trong dầu. Có lẽ tối hôm
qua, khi lấy dầu của chiếc LCU Quân vận, vì đêm tối nên không ai biết
dầu Diesel này có nước trong đó.

Không gian chung quanh chiếc tàu quá im lặng vì không có tiếng máy
tàu. Thỉnh thoảng vài cơn gió mạnh thổi ngang qua, gây nên tiếng kêu
phần phật từ các tấm vải giăng tạm, làm lều che nắng cho người đi tìm
Tự do. Chiếc tàu đánh cá đầy ắp dân di tản, dật dờ, bồng bềnh trôi với
thủy triều trên mặt biển êm ả. Tiếng người thì thầm nhỏ to, bàn tán
với nhau về việc máy tàu bị hư, và lo âu vì đêm qua thương thuyền Ðại
Hàn từ chối cứu vớt và sáng hôm nay, Khu trục hạm Mỹ dùng súng bắn
đuổi đi. Cho đến bây giờ vẫn không thấy bóng dáng chiến hạm Mỹ khác,
như lời đồn đãi của dân chúng Sài Gòn trước ngày 30 tháng 4.

Khoảng hơn hai giờ sau, các Sĩ quan Cơ khí đã sửa chữa xong hai máy
chánh và mọi người thở ra nhẹ nhõm khi nghe tiếng nổ của máy tàu. Sau
khi xác định vị trí trên hải đồ, chiếc tàu đánh cá với chiến đỉnh của
Hải đội Duyên phòng, được kéo phía sau lái, chạy trở lại hướng đông
bắc, vào thủy lộ của đoàn tàu đi tìm kiếm các chiến hạm thuộc Ðệ thất
Hạm đội Hoa Kỳ.

Tôi lấy ống nhòm và quan sát bốn phía với hy vọng tìm thấy một đối vật
gì trên mặt biển đang ngả sang màu xanh đậm, khi mặt trời bắt đầu thấp
xuống dần về hướng tây. Tôi nhìn phía tả hạm, không thấy gì khác ngoài
những đợt sóng dài và trời biển như dính liền thành một bức họa màu
xanh. Tôi quay về phía hữu hạm, hơi chếch trước mũi tàu và chợt ngừng
lại, điều khiển ống nhòm để nhìn thấy rõ hơn. Xa xa, bay lên từ chân
trời xanh đậm, một đợt khói đen mờ ảo, thấp thoáng như làn mây mỏng.
Quan sát viên ngoài phòng lái đã báo cáo cho Ðại tá Ch. về cuộn khói
này và ông ta cũng đang chăm chú đặt ống nhòm quan sát về hướng đó. Có
lẽ đây là khói bay lên từ một chiến hạm lớn của Hoa Kỳ, đang chạy cùng
chiều với chiếc tàu đánh cá.

Với vận tốc quá chậm so với chiến hạm Mỹ, tàu sẽ không bao giờ bắt kịp
và cơ hội được cứu vớt sẽ không thực hiện được. Vì thế Ðại tá Ch.
quyết định yêu cầu Thuyền trưởng Duyên tốc đỉnh và ba nhân viên tháp
tùng một Thiếu tá Hải quân thông thạo tiếng Anh, dùng chiến đỉnh chạy
nhanh để bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, và xin giúp đở dân di tản trên tàu
đánh cá này. Sau khi dùng lốp xe hơi bọc kín các súng đại liên, cũng
như bao kín khẩu súng 81 ly, để tàu Mỹ khỏi nghi ngờ và hiểu lầm bị
tàu Việt Cộng tấn công, chiến đỉnh tăng tốc độ tối đa tiến về hướng
chiến hạm Hoa Kỳ.

Tất cả mọi người nín thở nhìn theo chiến đỉnh và cũng là niềm hy vọng
của họ, đang nhỏ dần trên sóng nước mênh môngỳ. Tàu tăng thêm tốc độ
để cố gắng đuổi theo chiến hạm Mỹ, thân tàu rung chuyển thật mạnh dưới
sức đẩy của hai máy chánh, khói đen nhả lên bầu trời như dấu hiệu cầu
cứu của người thất lạc trên biển khơi. Vào khoảng một giờ sau, chiếc
tàu đánh cá đã bắt kịp chiến hạm Hoa Kỳ, đang ngừng lại trên biển chờ
đợi. Cặp bên cạnh hông chiến hạm Mỹ là chiếc Duyên tốc đỉnh, vừa làm
xong nhiệm vụ cứu mạng sống của hơn 300 người tỵ nạn. Ðây là loại tàu
chở dầu (Oiler) cở lớn dùng để tiếp tế ngoài khơi cho các chiến hạm
Hoa Kỳ, Hạm trưởng là một Sĩ quan Hải quân cấp bậc Ðại tá.

Tôi thông báo cho Trung tá Hạm phó chiến hạm biết là hầu hết trong số
gần 300 người di tản trên chiếc tàu đánh cá này, là quân nhân Hải quân
và gia đình, rồi tôi xin phép Hạm trưởng chấp thuận giúp đở và cho
phép mọi người lên tàu dầu. Lời thỉnh cầu thiết tha của tôi không được
chấp thuận vì lý do an toàn của chiến hạm, chiếc Nhiên liệu hạm này
không thể chở người trên tàu. Tuy nhiên vị Hạm trưởng đã yêu cầu Bộ Tư
lệnh Ðệ thất Hạm đội và được chấp thuận dòng chiếc tàu của dân tỵ nạn
ra địa điểm tập trung ngoài khơi của Hạm đội.

Toàn thể dân di tản đang lo âu vì không được giúp đở, reo hò mừng rỡ
khi nghe Ðại tá Ch. loan báo tin vui. Thế là thoát nạn và sống sót
rồi. Mọi người sung sướng, họ ôm nhau, nước mắt chảy dài trên những gò
má sạm nắng của các bà mẹ già, thiếu nữ, đàn ông lớn bé nhảy nhót vui
mừng, vì biết rằng chuyến hải trình tìm Tự do sắp sửa đến bờ. Thượng
đế đã che chở và giúp người dân Việt tìm về đất mới vì họ không muốn
sống dưới chế độ độc tài Cộng sản.

Màn đêm bắt đầu buông phủ vùng biển đông, gió mát thổi từng cơn làm
mọi người cảm thấy phơi phới. Tiếng nói cười ròn rã như mừng hội lớn
khi họ đón nhận những dĩa cơm trắng còn nóng hổi, rau giá xào trứng và
thịt nạc heo ngon lành do các đầu bếp Mỹ nấu, được chuyền xuống bởi
các người thủy thủ trẻ tuổi, từ sau lái chiếc Nhiên liệu hạm. Sau đó
dân di tản còn được cung cấp sữa tươi, chuối, cam và táo... Thôi thì
đủ thứ thực phẩm, mọi người cảm thấy thích thú, nhai ngấu nghiến, ngon
lành vì họ chỉ ăn mì gói gần hai ngày nay.

Một ý nghĩ làm cho tôi thắc mắc về sự chuẩn bị quá chu đáo của người
Mỹ. Không hiểu đây có phải là một kế hoạch đã được dàn xếp và chuẩn bị
từ lâu chăng. Làm sao mà Hải quân Hoa Kỳỳ có thể biết người Việt sẽ di
tản ra khỏi miền Nam Việt Nam, để có thể có một chương trình tiếp cứu
quá quy mô như thế này. Ðó là chưa kể thức ăn thuần túy của người Việt
Nam như cơm trắng, giá xào trứng và thịt heo, sẵn sàng nuôi người tỵ
nạn trên biển? Nhưng rồi tôi gạt ý tưởng này qua một bên và tiếp tục
ăn dĩa cơm trắng với giá xào, bên cạnh gia đình, vợ con mà tôi không
gặp mặt nhiều trong chuyến hải trình tìm Tự do này, vì mãi lo phụ
trách việc lái và đưa chiếc tàu đánh cá đến bến an toàn.

Chiếc tàu chở dân di tản được dòng suốt đêm với tốc độ thật chậm đến
vùng tập trung của chiến hạm thuộc Ðệ thất Hạm đội. Và rồi vào khoảng
ba giờ sáng, mọi người nhìn thấy từ xa một vùng trời rực sáng, hào
quang tràn ngập một góc trời như ánh đèn của một thành phố nổi. Khi
tàu tiến đến gần, mọi người ngạc nhiên và bàng hoàng khi nhìn thấy
hàng chục chiến hạm Mỹ đủ loại đang bềnh bồng trong một vùng biển thật
rộng lớn, đèn pha rọi sáng trưng, tiếng loa phóng thanh vang dội hòa
lẫn với tiếng máy tàu. Không khí thật tưng bừng náo nhiệt như chợ
phiên, gồm hàng trăm tàu bè, ghe thuyền lớn nhỏ, xà lan chở đầy dân di
tản Việt Nam, đang chuyển người qua các tàu loại đổ bộ như Dương vận
hạm hoặc Tiếp tế hạm hay Tuần dương hạm...

Công cuộc cứu vớt dân chúng miền nam Việt Nam thật vĩ đại và quy mô
chưa từng thấy xảy ra trong lịch sử nhân loại với hàng trăm chiến hạm
Hoa kỳ trợ giúp hàng trăm ngàn dân di tản trong ba ngày đầu kể từ lúc
Sài Gòn thất thủ.

Sáng sớm ngày mồng 2 tháng 5 năm 1975, tôi cùng gia đình theo sau đoàn
người trên dưới 300 đã quá giang trên chiếc tàu đánh cá nhỏ, lần lượt
leo qua boong tàu, bước lên chiếc cửa "ramp" phía sau lái của chiếc
tàu Dương vận hạm mang tên USS Barbour County (LST 1195). Mọi người
phải để tất cả hành trang tại chỗ được ấn định, để nhân viên an ninh
và thủy thủ đoàn kiểm soát. Tôi để chiếc va li nhỏ đựng áo quần của
các con mà vợ tôi mang theo được khi rời Căn cứ Yểm trợỳ, xuống sàn
tàu được giăng dây chung quanh, rồi đưa gia đình đi vòng qua phía
người lính gác, đứng lại đưa hai tay lên trời, để những thủy thủ này
dùng chiếc máy dò tìm kim loại khám xét. Trước khi lên tàu Mỹ, những
quân nhân Lôi hổ, được thuê để bảo vệ tàu đánh cá, đều phải liệng các
vũ khí cá nhân của họ xuống biển. Thuốc lá, aspirin, dầu xanh, dầu cù
là, thuốc chữa bệnh cũng bị thủy thủ đoàn vất xuống biển.

Sau hơn ba ngày lênh đênh, hải hành trên biển, vào buổi sáng sớm ngày
6 tháng 5, chiếc Barbour County đã vào hải phận của Phi Luật Tân. Từ
xa rặng núi xanh tại thành phố Baguio City nổi tiếng, đã hiện dần
trong sương mù trên mặt biển màu xanh dương. Tàu đổi hướng vào vịnh
Subic Bay và thả neo khoảng xế trưa. Ðại tá Hạm trưởng Dương vận hạm
Barbour County (LST 1195) thông báo trên máy phóng thanh là các chiến
đỉnh nhỏ sẽ lần lượt chuyên chở người tỵ nạn vào bờ. Ðồng thời ông cầu
nguyện ơn trên ban phước lành và chúc mọi người gặp được nhiều may mắn
trong hành trình còn lại đến đời sống mới.

Tôi yên lặng đứng trên sàn tàu nóng bỏng của chiếc tiểu đỉnh, nhìn lá
cờ Mỹ đang bay phất phới trên kỳ đài của Căn cứ Hoa Kỳ tại Subic Bay,
mà lòng cảm thấy thổn thức, ngậm ngùi. Tôi bâng khuâng nghĩ đến một
Ðại cường quốc, vì lý do chính trị nội bộ, vì quyền lợi đất nước của
họ, đã bỏ rơi cuộc chiến đấu của một Quốc gia nhược tiểu. Trong hơn
hai thập niên qua, miền Nam Việt Nam đã hy sinh tính mạng hàng trăm
ngàn thanh niên vô tội cho Thế giới Tự do, trong cuộc chiến tranh ý
thức hệ; ngăn chặn mưu đồ và hiểm họa nhuộm đỏ Ðông Nam Á của đảng
Cộng sản Quốc tế Việt Nga Tàu.

Gió mát đại dương không làm giảm bớt cơn nóng miền nhiệt đới và thoa
dịu nỗi lòng buồn tủi của dân Việt Nam tỵ nạn Cộng sản. Một cuộc đổi
đời phiêu lưu vô định sắp sửa bắt đầu và tiếp tục nối dài chuyến hải
trình định mệnh, đang chờ đón người di tản, mất quê hương, nơi phương
trời xa lạ.

Tiểu bang Virginia, 30 năm sau ngày di tản đau thương
Lê Bá Thông.

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Linh Mục Joe Devlin: Sứ Giả Của Tình Thương (2/9/2009)
Ông Chủ Tịch Huyện (2/6/2009)
Thế Hệ Hai: Một Nan Đề Của Chúng Ta Hôm Nay. (2/6/2009)
NDA # 10: Con Đặt Đâu Cha Mẹ Ngồi Đó (2/5/2009)
Hồi Ký Của Một Người Hà Nội. (2/5/2009)
Tin/Bài khác
NDA # 7: Chọn Ai Bây Giờ? (2/1/2009)
NDA # 5: Bơ Vơ Mùa Hè 1972 (2/1/2009)
NDA # 2: 35 Năm Một Chuyện Tình (2/1/2009)
NDA # 1: Ba Cựu Chiến Binh “homeless” Và Phim “inside The Vietnam War” (2/1/2009)
Tên Họ Người Việt Ở Xứ Người (3) (1/31/2009)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768