MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Collapse <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: đề mục chính :: lịch sử
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Yếu Tố Tạo Thành Tên Họ Người Việt (2)
Thứ Bảy, Ngày 31 tháng 1-2009

Yếu tố tạo thành tên họ người Việt (2)   

Phần II:

Ðặt tên cho con hoặc để gọi một người nào, người Việt vẫn dùng một họ
đơn hoặc kép, một chữ lót hoặc tên đệm biểu chỉ tính giống hoặc chữ
lót chung và một tên (gọi) đơn hoặc kép. Cách dùng này có từ thời lập
quốc, ít ra là từ khi có sách sử và thư tịch. Tuy nhiên ngày xưa và
nhất là ở một số tỉnh miền Trung, người đàn ông thường có tên họ đơn
giản chỉ gồm hai thành tố mà thôi, tên và họ : Trần Ðiền, Bùi Kỷ,
Nguyễn Du, Võ Hồng, ... Ở trên chúng tôi đã trình bày về lai lịch và
các loại họ đơn và kép. Trong phần này chúng tôi nói đến các yếu tố
chính gồm tên lót và tên gọi cũng như những loại tên khác người Việt
vẫn dùng để cá nhân hoặc độc đáo hoá chính mình.

1. CHỮ LÓT :

"Chữ lót" hay "tên đệm" trong tiếng Anh thường gọi là "middle name"
nhưng đúng ra phải là "padding/qualifying name". Tiếng Pháp có thể là
"nom interme'diaire" hay "mot intercalaire". Chữ lót đã được xử dụng
từ thời lập quốc xa xưa : ngư phủ Chử Cù Vân trong huyền thoại Chử
Ðồng-tử và công chúa Tiên Dung thời vua Hùng (2 tới 3 ngàn năm trước
Công-nguyên), anh bà Triệu Ẩu (248) tên gọi là Triệu Quốc Ðạt.

Chữ lót hoặc tên đệm thường được xử dụng nhất là "văn" và "thị" phân
biệt phái nam với phái nữ. "Văn" nghĩa là "người có học", "nhà nho".
"Thị" có nghĩa là "đàn bà". Có thuyết lịch sử cho rằng "thị" phát sinh
ra gốc họ hàng (thị tộc), có ý ám chỉ nhờ người đàn bà mà tộc họ được
tồn tại và kéo dài. Theo một số nhà ngữ học, "văn" và "thị" có nghĩa
là "con trai của...", "con gái của..." và là dấu vết ảnh hưởng văn hóa
Mã Lai. Cách phân biệt nam nữ tiện lợi và dễ hiểu này không còn được
người thời nay yêu chuộng lắm, vì người ta cho là thiếu cá tính. Do đó
người Việt nay có khuynh hướng chọn những chữ lót khác, hay, đẹp và
được chủ quan xem là thích hợp hơn với từng cá nhân.

Sự thay đổi này có thể có nhiều mục đích: làm rõ nghĩa tên gọi, tạo
một âm hưởng dễ nghe, hoặc tạo giây liên lạc họ hàng. Ngoài "văn" và
"thị", những tên lót chung thường thấy dùng là: phúc, đình, ngọc, bá,
thúc, cao, công, huy, như, tường, anh, đức, sĩ, viết, quang, ...

Một loại chữ lót thứ ba dùng để chỉ thứ tự con cái cùng một gia đình
và chỉ dùng cho con trai: "Mạnh" cho con cả, "Trọng" cho thứ nam và
"Quý" cho con trai thứ ba trở đi. Mạnh, Trọng, Quý vốn gốc chỉ ba
tháng của một mùa theo âm lịch. Cách dùng này đã thành thông thường dù
nguyên gốc, "Mạnh" dùng cho con cả dòng thứ trong khi "Bá" mới là con
cả dòng trưởng. Tuy nhiên Bá, Trọng, Quý còn có những nghĩa khác tùy
tên gọi đi sau chứ không nhất thiết thuộc vào ý nói trên. Thí dụ Bá
Tòng, Trọng Kiều (cầu nặng), Quý Châu. "Giáp" và "nguyên" cũng thuộc
loại chữ lót này, dùng để chỉ con trai đầu lòng, thí dụ : Lê Giáp Hải,
Vũ Nguyên Khang.

Loại chữ lót thứ tư dùng để phân biệt các ngành cùng một gia đình gốc
mà ra. "Bá", "Thúc" thường được dùng trong loại này. "Bá" dùng đặt cho
con nhà bác hoặc dòng trưởng, "Thúc" con nhà chú hoặc dòng thứ. Ngoài
ra, cũng cùng một mục đích kể trên, một số gia đình dùng những chữ lót
khác như "Vi, Thời", "Xuân, Vũ" : Ngô Vi Thụ, Ngô Thời Nhậm và Ðặng
Xuân Quang, Ðặng Vũ Biền.

Một số gia đình khác, thường thuộc giới quan cách, sáng chế chữ lót để
phân biệt thế hệ: tất cả con cái một thế hệ sẽ mang cùng một chữ lót.
Chế độ đặt tên này rất bành trướng bên Trung-Hoa trong giới quan lại,
bắt chước người Mãn Châu tức nhà Thanh lúc bấy giờ. Một ông tổ dụng
công đặt chữ lót cho nhiều đời nối tiếp, theo nguyên tắc "hệ thi"
chúng tôi đã trình bày ở phần trên, khiến con cháu dù tẩu tán lập
nghiệp phương xa cứ nhìn chữ lót là nhận được họ hàng và biết thuộc
thế hệ thứ mấy để tiện bề xưng hô. Thường những chữ lót định trước này
được ghi trong gia phả để con cháu đời sau biết mà theo, dưới hình
thức những câu thơ 4 hoặc 5, 7 chữ. Theo thứ tự, những chữ này trở nên
tên đệm. Và đến thế hệ cuối cùng, phải nghĩ ra những tên đệm khác !

Ở Việt Nam có họ Dương Khuê (Hà Ðông) đã phỏng theo cách này. Ông đã
đặt một bài hệ thi gồm 16 chữ, mỗi thế hệ cứ dựa vào đó mà đặt tên
lót: Dương Tự Quán, Dương Tự Ðề > Dương Thiệu Tống, Dương Thiệu Tước >
Dương Hồng Tuân, Dương Hồng Phong > Dương Vân Hán, v.v.

Về phần phái nữ, ngoài chữ lót thông dụng "thị" còn thấy dùng những
tên lót khác như "Nữ" và "Diệu", chữ lót sau thường dùng ở Huế : Lê
thị Diệu Trang, ... Ở thời hiện đại, tên phụ nữ thường mất hẳn chữ lót
"thị" và nhiều chữ lót khác được dùng như : ngọc, thanh, mỹ, thu,
tuyết, v.v. dù các chữ lót này không hẳn chỉ dùng cho phái nữ. Nữ có
thể là Vũ Ngọc Lan, Trương Thu Thủy, Nguyễn Mỹ Dung, ... trong khi
Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thành Công, ... rõ là nam giới !


2. Tên Gọi (Danh) :

Tên gọi còn được gọi là "tên đẻ", đặt khi mới sinh và "tên bộ", tên
ghi ở sổ Bộ. Tên, người Pháp gọi là "prénom" và người Anh, Mỹ gọi là
"first name" (hay "personal name") vì đặt trước họ, trong khi người
Việt cũng như nhiều dân tộc Á đông khác, tên được đặt sau họ. Một lý
do là truyền thống tôn kính gia tộc họ hàng trên trước cá nhân.

Tên thường được chọn một cách tự do hơn. Một cách tổng quát, người nhà
quê và bình dân chỉ lựa một tên (đơn, tức độc văn danh), người giàu
hoặc có học hoặc tự cho sang trọng hoặc học làm sang, thì có khuynh
hướng đặt tên kép (song văn thanh). Ý nghĩa tên gọi trong trường hợp
sau cùng này nằm trong cả hai hoặc ba yếu tố tạo nên tên gọi. Tên gọi
kép thường dễ tìm thấy trong các từ điển, thí dụ : Hào-Kiệt,
Tuấn-Kiệt, Anh-Hùng, AnhÐũng, Bạt-Tu.y, Kỷ-Cương, An-Khang, Chi-Lan,
Diễm-Kiều, Ðoan-Trang, Tinh-Hoa, v.v.. Cùng trường hợp với một số chữ
lót như "ngọc, thanh, ...", nhiều tên gọi có thể dùng cho cả nam lẫn
nữ vì nói chung toàn bộ tên họ của một người thường mới cho biết người
đó là nam hay nữ : Hiền, Tuyền, Kim, Hoàng, Nhân, v.v.

Trên lý thuyết, mỗi người có một tên gọi khác nhau. Khác, vì tùy theo
tín ngưỡng hoặc tư tưởng người ta muốn gán cho tên gọi, hoặc tùy theo
tính tình và trí tưởng tưỡng của người đặt tên. Mỗi người có thể đặt
tên cho con cháu hoặc đổi tên mình theo ý muốn, cả những tên kỳ dị hay
đặc thù không giống ai. Tên đơn giản thường thấy ở giới bình dân hoặc
ở thôn quê như: Ổi, Mít, Tèo, Bướm, Tí, Hĩm, Cu, ... Nhà nào sanh con
khó nuôi hoặc hay bị bệnh tật sài đẹn thường đặt cho con những tên xấu
xí để "quỷ thần" tha như Vẹo, Ðủi, Ðen, ... Có người không dám đặt tên
con quá hay sợ bị quở hay chê cười. Thời xưa, các cụ còn phải tham
khảo các bậc túc nho hoặc biết chữ và tỏ ra thận trọng trong việc đặt
tên cho con cháu.

Tuy nhiên, theo thói tục, việc đặt tên thường được căn cứ theo truyền
thống và tín ngưỡng, nhất là trên nguồn gốc và quyền lực có thể có của
tên gọi. Tên gọi còn có thể diễn tả những ước ao hoặc lý tưởng đặt cho
đứa trẻ mới chào đời như một thông điệp nhờ đứa trẻ tinh khiết làm
người đưa tin hoặc báo tin cho đời. Từ khi hàng triệu người Việt phải
bỏ nước ra đi chẳng hạn, nhiều người đặt tên cho con là Nam Quân, Phục
Quốc, Hồi Hương,... cũng trong ý nghĩa đó. Nhà nhân chủng học Claude
Le'vi-Strauss trong La pensée sauvage (1962) đã đề cao tầm quan trọng
của ý nghĩa tiềm ẩn của tên gọi (4).

Ở hải ngoại, người Việt khi đổi quốc tịch có khuynh hướng đổi tên hoặc
thêm tên gọi tiếng bản xứ, đã làm mất hẳn hay giảm đi yếu tố duy nhất
và độc đáo của tên gọi. Dĩ nhiên có những tên gọi đẹp và đầy ý nghĩa
trong tiếng Việt đã trở nên ... khó nghe khi phát âm theo tiếng bản xứ
như Côn, Công, Dung, Dũng, Phúc, Quy, ...

Tóm một chữ, tên gọi có quan hệ đến tương lai của đứa trẻ và mọi người
nói chung sẽ cùng mang tên gọi suốt đời.

Một cách cụ thể, tên gọi có thể là tên sông hồ, núi non, hoa quả, cây
cỏ (Tùng, Bách, Mai, Trúc, Lan, Hòe, Quế,...), màu sắc, chim chóc hoặc
cầm thú (Long, Lân, Quy, Phượng, Loan, Yến,...), bốn mùa (Xuân, Hạ,
Thu, Ðông), tháng, năm (Tí, Sửu, Dần. Mão, Mẹo, Thìn, Tỵ,...), ngọc
quý (Pha, Châu, Ngọc, Quỳnh,...), tên thuộc về loại kim (Cương, Chung,
Liệu,...), loại đá (Thạch, Bích, Thạc, Nha, Sa, ...), phúc đức, phẩm
hạnh hoặc hình dung tốt đẹp (Phúc, Lộc, Khang, Ninh, Thạnh, Vĩnh,
Trường, ...). Nhiều người thông hiểu chữ Hán có khuynh hướng lấy từ
kinh sách, châm ngôn, điển tích hoặc đặt tên theo bộ chữ Hán. Học giả
Phạm Quỳnh, tên Quỳnh thuộc bộ Ngọc, nên đã đặt tên con theo cùng bộ
Ngọc : Khuê, Dao, ... Người ta cũng lấy địa danh, chổ ở, nơi sanh quán
hay nguyên quán hoặc tên các nhân vật tiểu thuyết (nhưng tránh lấy tên
các nhân vật lịch sử). Cũng vì lý do tôn trọng tổ tiên, mọi người đều
tránh lấy tên ông bà cha mẹ đặt cho con cháu, khác với người Tây
phương. Cuốn gia phả là cẩm nang để con cháu tránh đặt trùng tên gọi
với ông bà tổ tiên.

Về cách đặt tên trong một gia đình, có người đặt tên con cái theo vần
hoặc lấy cùng một chữ cái, hoặc tất cả tên gọi các con tạo thành một ý
hoặc dùng tất cả tên một loại mà đặt cho con: thí dụ tên bốn mùa, tên
các phẩm hạnh (Hạnh, Nhân, Trí, Tín,..; Phước, Lộc Thọ,..) tên ngũ
hành hay ngũ tinh (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), ngũ phúc (Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh), tứ duy (Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ), tứ đức (Hiếu, Ðễ, Trung, Tín cho con trai; Công, Dung, Ngôn, Hạnh cho con gái), tứ linh (Long, Lân, Quy, Phượng).

Trở ngại là khi con sanh ra nhiều hay ít hơn bộ
chữ. Và cách đặt tên này chỉ dễ dàng trong xã hội xưa "tam thê bảy
thiếp" và sanh con còn là "bổn phận" của phụ nữ như ghi trong luật
Hồng Ðức và Gia Long cũng như đàn ông tuyệt tự còn là lỗi lớn với ông
bà tổ tiên. Ðời nay, người phụ nữ bình quyền, ly dị đã thành thói
thường, tình gia tộc ngày càng suy yếu thì cách đặt tên này ngày càng
khó thực hiện.

Một khuynh hướng đặt tên khác cũng nên ghi nhận dù không thật sự phổ
biến, đo là cách đặt một tên gọi cho tất cả con trai hoặc gái, chữ lót
sẽ làm phần việc phân biệt mỗi đứa con. Con gái : Hồng Ly, Mai Ly,
Trúc Ly; con trai : Anh Khoa, Tuấn Khoa, v.v.

Ngoài tên bộ là tên gọi chính thức trên giấy tờ hộ tịch, người ta có
thể có thêm tên tục (vulgar name), tên cúng cơm, tên thân mật, tên
lịch sự, do chính mình hoặc do người ngoài đặt cho mình. Trước khi có
tên bộ thường đã có tên tục (domestic name) để gọi trong nhà; nhất là
thời xưa chỉ khi đến tuổi đi học, cha mẹ mới làm giấy tờ hộ tịch cho
con, lúc đó mới chọn tên đẹp đẽ cho con - đứa trẻ lúc đó sẽ có hai tên
gọi, tên tục đã có và tên gọi ở trường (name at school). Các tên tục
thường nghe : Cu Tí, Cu Nhớn, Cu Tẹo, Ðĩ Lớn, Ðĩ Con, Ðĩ Út,... Trong
Nam người ta còn gọi con theo thứ tự: Hai, Ba, Tư,.. Tên bộ có thể
thay đổi. Cụ Nguyễn Khuyến vốn tên Nguyễn Thắng vì rớt thi Hội năm
1865 đã xin đổi thành Khuyến. Nhà thơ sông Vị Trần Tế Xương từng đổi
hai lần nhưng chỉ đổi tên lót, từ Cao thành Tế và cuối cùng là Kế.


3. Các tên khác :

Ngoài tên ra, người Việt có bút hiệu, bí danh khi cần và theo truyền
thống Nho giáo và Trung-Hoa, ta còn có tên tự, tên hiệu, tên tước, tên
thụy và tên đạo..

Tên tự là tên chữ, thường phải đi đôi với tên gọi (Danh) và theo kinh
sách, thường là một câu chữ Nho có ý hay nghĩa lạ, như Tố-Như Nguyễn
Du, Sĩ-Tải Trương Vĩnh Ký, Lệ-Thần Trần Trọng Kim, Ưu-Thiên Bùi Kỷ,
Sở-Cuồng Lê Dư, Ứng-Hoè Nguyễn Văn Tố, Quán-Chi Ðào Trinh Nhất, ...

Khác với tên tự, tên hiệu và bút hiệu không theo nguyên tắc đi với tên
gọi mà tự do lựa chọn, tùy sở thích. Tên hiệu (symbolic name) do chính
đương sự hoặc cha mẹ đặt cho, thường có ngụ ý hoài bảo, chí khí như
Sào-Nam Phan Bội Châu, Ức-Trai Nguyễn Trãi, Bạch-Vân Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Tiên-Ðiền Nguyễn Du, Hạo-Nhiên Nghiêm Toản, hoặc nói lên gốc
gác, liên hệ như Tản-Ðà Nguyễn Khắc Hiếu, Lương-Ðường Phạm Quỳnh, ....

Bút hiệu (nom de plume, penname) là tên hiệu của người cầm bút, tự do
đặt và có thể thay đổi nhiều lần hoặc dùng nhiều bút hiệu một lúc. Bút
hiệu thường gồm hai chữ hoặc hơn và có thể mang hình thức của tên thật
như Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), Hoàng Cầm (Bùi Tằng Việt), Thẩm Thệ
Hà (Tạ Thành Kỉnh), Cung Trầm Tưởng (Cung Thúc Cần), Dương Nghiễm Mậu
(Phí IÙch Nghiễm), Lý Hoàng Phong (Ðoàn Tường), Tô Kiều Ngân (Lê Mộng
Ngân), Nguyễn Kiên-Trung (Nguyễn Mạnh Côn), Hà Thượng Nhân (Phạm Xuân
Ninh), Mai Trung Tĩnh (Nguyễn Thiệu Hùng), Vương Ðức Lệ (Lê Ðức
Vượng), Trần Thy Nhã-Ca (Trần Thị Thu-Vân), Trần Tuệ-Mai (Trần Thị
Gia-Minh), Hoàng Hương Trang (Hoàng Thị Diệm Phương), Lê Xuyên (Lê
Bình Tăng), Tô Thùy Yên (Ðinh Thành Tiên), Chu Vương Miện (Nguyễn Văn
Thưởng), Phạm Thiên Thư (Phạm Kim Long), Trần Dạ Từ (Lê Hà Vĩnh), Võ
Phiến (Ðoàn Thế Nhơn), Trần Hoài Thư (Trần Quý Sách), Vũ Hạnh (Nguyễn
Ðức Dũng), v.v.. Bút hiệu có thể là tên địa lý như sinh quán, trường
hợp của Tô Hoài, Thanh Châu, Sa-Giang Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang Hà
Huy Hà, có khi do đảo lộn tên thật như Biển Ngũ Nhy (Nguyễn Bính, thân
phụ nhà văn An Khê), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Thế-Lữ (Nguyễn Thứ
Lễ), J. Lebai (Lê Bái), có khi có thể chỉ là tên những người thân yêu
như Mai Thảo, Thế Uyên, Thanh Tâm Tuyền, thậm chí có khi do tình cờ
như Tam IÙch trước đã hay ký mật hiệu XXX. Nhiều nhà văn không hề dùng
bút hiệu như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Thị Vinh, Nguyễn Mộng Giác. Có
nhà ký tên thật nhưng lược tên gọi như Nguyễn Bính (Thuyết), Phạm Duy
(Cẩn), hay lược họ như Nguyên Hồng (Nguyễn), Hữu Loan (Nguyễn), Huy
Cận (Cù), Xuân Diệu (Ngô), Nhật Tiến (Bùi), Túy Hồng (Nguyễn Thị). Có
người lại chỉ nỗi tiếng với tên thật như Hồ Hữu Tường, Võ Hồng, Nguyễn
Ngọc Ngạn, v.v.

Riêng "biệt danh" hay "sước hiệu" (surnom, deuxième prénom, sobriquet
; nickname) thường do người khác đặt cho, gán cho và thường có ý trêu
chọc hoặc miêu tả ác ý diện mạo hoặc tật xấu của người đó. Nhà văn
Nguyễn Tuân có sước hiệu là "Tuân mũi to", Phạm Quỳnh "kính trắng tiên
sinh", một cựu tổng thống miền Nam "tổng lì", v.v.

"Tên tước" hay "tước hiệu" thường được phong cho, chỉ thấy ở giới quý
tộc, quan lại: Ôn-Như hầu Nguyễn Gia Thiều, Tùng-Thiện vương Miên
Thẩm, v.v.

Bí danh thường được những người làm chính trị, cách mạng và cả công
an, quân đội sử dụng để bảo mật. Bí danh khác với tên "cách mạng" như
của một số đảng viên cộng sản ở Việt Nam, trong thực tế là một cách
đổi tên, muốn dâng hiến cho công tác hay chối bỏ quá khứ, gia đình: Lê
Ðức Thọ, Mai Chí Thọ, Xuân Thủy, Trường Chinh, v.v.

Trong các tên khác có "tên thụy" tức tên hèm (posthumous name). Khác
với "tên cúng cơm" là tên vốn có của một người khi mới sanh hay lúc
nhỏ, tên hèm là tên tự chọn khi tuổi già để dùng vào việc cúng giỗ và
thờ phượng, ý là người chết sẽ biết tên mà về. Nếu không kịp tự chọn,
người nhà tìm đặt cho người vừa chết để con cháu khấn vái, cúng giỗ.
Tên thụy còn là tên ghi vào sớ hoặc do nhà vua truy tặng để tưởng nhớ
công đức người chết. Tục lệ đặt tên thụy khởi từ đời Tây Chu bên
Trung-quốc : đình thần căn cứ vào sự nghiệp hoặc hành vi, đức độ của
nhà vua lúc còn sống mà đặt tên thụy cho vua. Lúc đầu thường dùng một
trong bốn chữ Văn, Vũ, U và Lệ nhưng về sau chỉ dùng Vũ và Văn là hai
chữ để khen. Sau lại đổi thành "miếu hiệu" như vua Gia Long có miếu
hiệu Thế-tổ Cao Hoàng-đế, Tự Ðức được tặng là Dực-tôn Anh Hoàng-đế,
v.v.

Riêng "tên húy" tức tên phải kiêng tránh, thường là tên thành hoàng
của làng xã hoặc tên của vua chúa và hoàng gia cũng như miếu hiệu,
hoặc tên của quan lớn sở tại. Người dân giả lỡ trùng tên phải đổi hay
đọc trại ra hay lệch đi. Phan Huy Chú vốn tên tục là Hiệu vì kiêng húy
đã phải đổi thành Chú. Ðời vua Minh Mạng thứ 13 (1832) còn đặt ra lệ
hễ các quan cùng tỉnh trùng tên thì người kém phẩm trật phải đổi tên.
Ðó là lý do Cảnh đọc thành Kiểng, Thái thành Thới, Hòa thành Huề, Anh
thành Yêng, v.v. Hay tìm tiếng giống nghĩa mà thay vào : Riêu thay
Canh, Tập thay Học, v.v. Ngày xưa đi thi mà không biết để tránh tên
húy là phạm trường qui, bị hỏng thi đã đành, có khi còn bị tù tội.

Cuối cùng là "tên đạo" : nếu theo đạo Phật là "pháp danh" (Buddhist
religious name), là những tên đặt khi quy y; nếu theo Thiên Chúa giáo,
có "tên thánh" (nom de baptême, patron-saint's name) khi rửa tội, thí
dụ Pétrus Ký tức Trương Vĩnh Ký. Có ngộ nhận cho rằng tên thánh là lai
căng mất gốc. Thật ra tên thánh là tên chỉ dùng trong phạm vi tôn
giáo, cũng như phápđanh của người theo đạo Phật, còn thì người theo
đạo Thiên Chúa hay Cơ Ðốc vẫn mang tên họ như bất cứ người theo đạo
nào khác. Ngộ nhận này đã dần mất sau biến cố 30-4-1975 khi người Việt
vì nhu cầu hội nhập ở nước ngoài, đã lấy cả tên gọi của người bản xứ.

Nguyễn Vy Khanh

 

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Chuyến Hải Trình Định Mệnh (2/2/2009)
NDA # 7: Chọn Ai Bây Giờ? (2/1/2009)
NDA # 5: Bơ Vơ Mùa Hè 1972 (2/1/2009)
NDA # 2: 35 Năm Một Chuyện Tình (2/1/2009)
NDA # 1: Ba Cựu Chiến Binh “homeless” Và Phim “inside The Vietnam War” (2/1/2009)
Tin/Bài cùng ngày
Tên Họ Người Việt Ở Xứ Người (3) (1/31/2009)
Thuyền Nhân (1/31/2009)
Tin/Bài khác
Ls: Câu Chuyện Ptan # 11: Cô Con Gái Qúa Giang Đêm Mồng Một Tết. (1/3/2017)
Những Câu Chuyện Chưa Kể (1/30/2009)
Đợi Gì Ở Obama? (1/29/2009)
Ls: Lược Sử Tên Họ Người Việt (1) (1/29/2009)
LS: Một Chân Trời Mới (1/29/2009)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768