MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Collapse <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: đề mục chính :: lịch sử
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Ls: Tình Nghĩa, Nghĩa Tình
Thứ Ba, Ngày 13 tháng 1-2009

Tôi đã lớn lên và đã hiểu ra rằng tôi không hề phải chọn lựa giữa quê
hương thứ nhất Việt Nam và quê hưong thứ hai Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất
nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cưu mang tôi, cho cây tôi lớn lên thành
một cây quýt ngọt, và đất nước này không hề phiền hà khi tôi đem chia
xẻ trái ngọt đó với nơi tôi sinh ra.

Tình Nghĩa, Nghĩa Tình

Lần đầu tiên tôi có ý định viết chuyện này là năm 1989. Năm đó, cả
nước Mỹ xôn xao tranh cãi về việc một người đàn ông đã đốt lá cờ Mỹ
ngay trên thềm toà nhà Quốc Hội trong buổi họp thường niên cuả đảng
Cộng Hoà. Lúc đó tôi đã nghe nhiều bàn tán về sự kiện này từ phía
chống đối cũng như phe ủng hộ. Ngày đó tôi vưà mới tốt nghiệp đại học,
chưa để ý nhiều đến những sinh hoạt chính trị xã hội ở chung quanh,
nhưng trong lòng tôi đột nhiên dâng lên một cảm xúc gần như là tiếc
cho ngươì đàn ông đã làm hành động đó. Nếu ông ta từng nhìn lá cờ Mỹ
qua đôi mắt của tôi và của hơn một trăm ngươì bạn đồng thuyền vaò buổi
sáng muà hè năm ấy, không biết ông ta có hành động khác đi chăng?
. . .
Đêm trung tuần tháng 7 năm 1983 bắt đầu khá êm ả. Con thuyền nhỏ đầy
kín ngươì đã ra hải phận quốc tế được gần 24 tiếng. Tôi đã hơi quen
với mùi hôi tanh lợm giọng trong thuyền nên cảm thấy hơi tỉnh táo,
ngồi bó gối nhìn cô em gái nằm bên cạnh đang mê man vì say sóng. Ngước
mắt nhìn lên bầu trời đang chuyển dần từ màu xám sang màu đen thẫm,
tôi thầm cầu nguyện cho được bình an. Cám ơn trời, biển khá êm, con
tàu không vật vã mà chỉ chồm lên hụp xuống theo từng đợt sóng. Tiếng
khóc cuả con nít, tiếng càu nhàu than thở, tiếng chửi thề cũng lắng
dần khi mọi ngươì chìm vào giấc ngủ mệt mỏi...
Hình như tôi có thiếp đi một lúc vì khi tôi giật mình choàng dậy thì
sự hoảng sợ đã chụp xuống chung quanh. Bác tài công đang hối hả kêu
mấy ngươì lái phụ và các thanh niên khác dùng bạt bịt kín khoang
thuyền nơi mọi người đang nằm chen chúc. Chiếc đèn măng xông duy nhất
trong phòng máy bị thổi tắt phụt sau khi bác tài công ra lệnh:

- Tắt đèn! Tắt hết đèn đi!!!

Lắng nghe những lời thì thào trao đổi một lúc tôi mới hiểu ra rằng tàu
chúng tôi đang bị tàu cuớp Thái Lan đuổi bắt. Chúng tôi phải tắt hết
đèn chạy xuyên vào biển đen trong khi tàu Thái ra sức rượt theo. Cả
tàu đuợc lệnh tuyệt đối im lặng, những đứa bé vưà lên tiếng khóc phải
bị bịt miệng ngay. Không biết lúc đó tôi còn trẻ quá, dại dột quá, có
nhiều tin tưởng quá, hay vì cảm xúc cuả tôi đã tê dại đi, nên tôi
không thấy sợ hãi lắm. Tôi gần như không cảm được sự hãi hùng của hơn
một trăm sinh mạng đang loi ngoi trong khoang thuyền bịt kín. Tôi chỉ
thấy khó thở vô cùng; tôi chỉ thấy nhẹ gánh cho em tôi đang mê man,
chắc nó không phải cảm thấy sự ngộp thở tưởng chừng như không kham nổi
mà tôi đang chịu; tôi chỉ biết tự nhủ ráng lên, ráng lên; và tôi không
ngừng cầu xin Thượng Đế, Chúa, Phật, và tất cả những đấng thiêng liêng
cứu vớt chúng tôi...

Chúng tôi chạy vòng vèo ngay truớc mũi tử thần trong suốt một đêm, và
bình minh tới dù không ai mong đợị. Những tia sáng đã quét đi màn đêm
đang che chở chúng tôi. Bác tài công buông những câu chửi thề uất hận
khi khoảng cách giữa bọn cướp và chúng tôi thu ngắn trong khoảnh
khắc...  Rồi tôi lại nghe bác lại chửi, nhưng lần này đuợm vẻ ngạc
nhiên pha chút vui mừng:

- ĐM, hình như tụi nó bỏ đi hả bây?

Tấm bạt bịt khoang được hé ra cho chúng tôi khỏi chết ngộp, và qua cái
khe hở nhỏ đó, một con cá nhỏ xíu bằng ngón tay cái đã phóng vào
thuyền, rơi xuống ngay cạnh tôi. Tôi ngước mắt cố nhìn nhưng vì đang
ngồi bẹp trong khoang thuyền nên tôi chẳng thấy được gì ngoài một mảng
trời đang sáng dần.

Bỗng bác tài công và những nguơì trong phòng máy trên cao vụt la lớn:

- Có tàu! Có tàu lớn ở đàng xa kià!

- Tàu gì vậy? Vái trời cho không phải tàu Liên Xô!

Chúng tôi như đuợc hồi sinh, ai cũng nhỏm lên nhìn nhưng vì lúc đó
chiếc tàu kia chỉ là một đốm nhỏ ở xa nên tôi chưa thấy gì cả. Vài
phút sau, có tiếng máy rồi một chiếc máy bay trực thăng nhỏ bay qua.
Người trong thuyền la hét như điên cuồng, nhiều người đàn ông cởi áo
phất lia lịa nhưng máy bay chỉ lượn vài vòng rồi...  mất hút. Dù sao
chúng tôi cũng có một tia hy vọng ở chân trời, chúng tôi vội nhắm cái
chấm ở tít đằng xa mà chạy tới. Và chiếc tàu kia hình như cũng đang
chạy về phía chúng tôi vì nó càng ngày càng lớn dần.

Và, suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên giây phút đó, giây phút ngươì
đàn ông ngồi trên cao la lạc giọng:
- Thấy rồi! Thấy cờ Mỹ rồi!!!

Nước mắt ông ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ lấm lem dầu máy. Mọi
người đứng bật lên làm thuyền chao mạnh. Chúng tôi đã thật sự được
sống!

Chiếc tàu vớt chúng tôi là một hàng không mẫu hạm của Mỹ. Nó to như
một toà nhà mười mấy tầng, những ngươì lính đầu tiên phải leo thang
dây xuống để đem con nít và những ngươì yếu sức lên trước. Em tôi đã
tỉnh dậy như một phép lạ và chúng tôi bám vào thang dây, dò từng bước
leo lên boong tàu. Vưà lên tới nơi, mỗi ngươì được trao một ly sữa và
một trái táo trước khi tụ tập trong một góc boong. Và ngạc nhiên thay,
trên tàu đã có cả trăm ngươì Việt Nam chạy ra mừng chúng tôi. Thì ra
chiếc tàu Mỹ này vừa mới vớt một thuyền vượt biên khác ngày hôm trước.
Sau khi mọi ngươì đã lên tàu lớn, những nguơì lính Mỹ tưới xăng lên
chiếc thuyền mà chúng tôi vưà rời khỏi rồi châm lưả đốt. Đứng trên
boong tàu nhìn vói theo chiếc thuyền nhỏ xíu đang bốc cháy và trôi dần
ra xa, biết rằng mình vô cùng may mắn, nhưng lòng tôi vẫn thoáng chút
ngậm ngùi...

Tổng cộng thuyền nhân đuợc cứu từ hai chiếc ghe vuợt biên lên tới gần
hai trăm năm mươi người. Hồi đó, tiếng Anh cuả tôi kém và tính tình
nhút nhát nên không dám hỏi han những người lính ở trên tàu. Tôi chỉ
nghe nói lại là chiếc hàng không mẫu hạm này đang trên đuờng đi công
tác ở Phi Luật Tân. Họ đã nhìn thấy tàu chúng tôi từ rất xa và quyêt
định đi chếch qua để cứu chúng tôi. Chiếc trực thăng bay qua trước khi
tàu đến cũng là do vị thuyền trưởng đã gởi tới để xem xét tình trạng
của chúng tôi.

Không hiểu vì sao mà trên tàu có sẵn một số quần áo cũ. Chúng tôi đuợc
phép lựa những thứ tạm mặc đuợc để thay đổi hàng ngàỵ. Khổ nỗi đống
quần áo đã qua sự lựa chọn cuả những người lên trước nên chỉ còn toàn
những thứ khó mặc. Tôi nhặt đại hai cái áo to bằng bốn lần khổ người
tôi, và một bộ áo liền quần màu xanh bó sát. Chẳng hề gì, tôi vẫn vô
cùng sung sướng vì ước mơ gần như hoang đường nay đã thành sự thật:
tôi đã trốn thoát khỏi Việt Nam và đang ở trên tàu Mỹ.

Ngày đó tôi vưà học xong trung học. Sau 8 năm đói khổ sau bức màn sắt
cuả Cộng Sản, thế hệ chúng tôi hầu như quên mất có một thế giới bên
ngoài.. Trong những ngày trên tàu Mỹ tôi đã gặp lại những hành động
lịch sự, những cử chỉ nhân ái gần như đã biến mất trong xã hội nơi tôi
vừa ra đi. Những ân nhân của chúng tôi ân cần đến từng chi tiết nhỏ,
một trong những việc đầu tiên họ làm là phát phong bì, giấy bút cho
chúng tôi viết thư báo tin cho người thân. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn
nhớ chiếc phong bì màu xanh nhạt có hình chiếc hàng không mẫu hạm và
tên tàu ở góc, tôi vẫn còn nhớ ánh mắt thương cảm của những người trên
tàu nhìn chúng tôi nhếch nhác, bơ phờ dò từng bước lên tàu.

Suốt thời gian trên tàu tôi vô cùng ái ngại cho những ngưòi lính và
những sĩ quan đã tốn không biết bao nhiêu công sức để lo cho hơn hai
trăm ngươì chúng tôi. Vì hàng không mẫu hạm là đơn vị quân sự nên
chúng tôi không được phép ra khỏi phần cuối boong tàu. Mỗi người được
phát một tấm chăn dạ màu xám, loại chăn nhà binh Mỹ mà tôi đã thấy
trước năm 1975. Chăn rất tốt và khí hậu Thái Bình Dương vào muà hè khá
ấm nhưng chúng tôi phải nằm ngay trên boong và gió thổi lồng lộng khi
tàu chạy nhanh nên ban đêm vẫn lạnh. Tôi ngủ đuợc rất ít nhưng chính
vì thế tôi càng có cơ hội chứng kiến sự tận tâm cuả những người trên
tàu. Sáng sớm tôi vưà thức dậy đã thấy ngươì ta đang lăng xăng dọn
thức ăn sáng cho chúng tôi. Mất mấy tiếng mới phục vụ hết đám ngươì
đông đúc nên chỉ vài tiếng sau là họ lại lục tục lo bữa ăn trưa, rồi
ăn tối. Thức ăn quá lạ miệng nên tôi không thấy ngon, ngay cả trái
chuối cũng khác ở Việt Nam, nhưng tôi nhớ nhất là ly cà phê đầu tiên
trên tàu. Đã từng nếm những ly cà phê đen sánh quậy với sữa đặc ở Việt
Nam, tôi ngạc nhiên lắm khi ngậm ngụm cà phê Mỹ pha sẵn. Thật tình, cà
phê sao chua lè và trong veo, y như là nước giảo của cà phê Việt Nam!

Vấn đề vệ sinh cho hơn hai trăm người chen chúc trong khoảng không
gian nhỏ mới thật là kinh khủng. Thuỷ thủ đòan phải dùng nylon đen che
thành mấy phòng tắm quay mặt ra biển, nhà vệ sinh cũng là nylon đen
quây quanh mấy thùng sắt to. Mỗi sáng nhân viên trên tàu cùng chúng
tôi dọn dẹp, và tôi không thấy người nào tỏ thái độ khó chịu cho dù
trong khi làm những việc cực nhọc nhất.

Mấy ngày ngắn ngủi trên tàu mãi mãi là một trong những kỷ niệm khó
quên nhất trong đời tôi. Trên chiếc hàng không mẫu hạm hùng vĩ đó, tôi
đã đuợc xem cảnh tàu chở xăng xáp vào tiếp nhiên liệu cho tàu lớn ngay
trên biển, đã được chứng kiến những sinh hoạt hàng ngày quy củ răm rắp
như một trong guồng máy nhưng đuợc thực hiện bởi hải đoàn đầy ắp tình
người. Tôi nhớ nhân viên trên tàu ngoài nhiệm vụ riêng họ còn phải
chăm sóc đủ thứ cho chúng tôi, và phải lo rất nhiều giấy tờ cho thủ
tục gởi chúng tôi vào trại tị nạn Thái Lan. Bận rộn vậy nhưng không
khí trên tàu luôn ấm cúng và thân tình. Tôi vẫn nhớ lễ chào cờ mỗi
sáng, đám người tị nạn đứng sát bên thuỷ thủ đoàn cùng lắng nghe quốc
ca Hoa Kỳ vang vọng. Tôi vẫn mường tượng đuợc cảm giác bàng hoàng khi
nhìn lá cờ Hoa Kỳ bay lồng lộng trên bầu trời xanh biếc cuả Thái Bình
Dương mà tự nhủ không biết mình sẽ ra sao nếu chiếc tàu này đến trễ
chỉ một vài tiếng trong buổi bình minh hôm trước...

Mỗi buổi chiều khi công việc đã xong, người trên tàu túa ra trò chuyện
với chúng tôi. Từ vị sĩ quan trong đồng phục trắng toát tới anh thuỷ
thủ trong đồng phục xanh, ai cũng ân cần vui vẻ. Họ đuà giỡn với con
nít, trò chuyện với mọi nguời, cố lắng nghe những câu tiếng Anh vụng
về cuả chúng tôi để tìm hiểu xem chúng tôi có cần thêm gì hay không.
Để chúng tôi giải khuây, họ còn căng màn chiếu phim. Tôi nhớ mãi cuốn
phim đó là phim Điệp viên 007 James Bond với tựa đề "For Your Eyes
Only". Giữa trời đêm lồng lộng ngàn ánh sao, trên con thuyền băng băng
xuyên vào biển đen, những hình ảnh rực rỡ chớp tắt trên màn ảnh vĩ đại
làm tôi mơ màng tưỏng như mình đang trôi trong đêm hoa đăng thần thoại
của một giấc mơ kỳ diệu...

Như thế đó, tôi đã may mắn gặp đuợc cái đẹp đẽ nhất cuả nước Mỹ trước
khi đặt chân tới đất nước này. Tôi đến Mỹ với vài đô la và mấy bộ quần
áo tồi tàn nhưng gia tài cuả tôi là lòng cảm mến sâu xa với một miền
đất giàu tình ngươì, cùng với hoài bão sẽ cố gắng sống cho xứng đáng
với sự hy sinh cuả gia đình, với sự may mắn mà Thượng Đế đã nhờ những
"sứ giả" trên tàu Mỹ đem đến cho chúng tôi.

Những bối rối vì ngôn ngữ, những trở ngại khi hội nhập đôi khi có làm
tôi buồn nản, nhưng tôi thấy quay quắt nhất là những khi nhớ về Việt
Nam. Những chuyện nhỏ nhặt như khi đi chợ Việt Nam, nhìn người ta xăm
soi tìm cho được những trái tuyệt hảo nhất trong đám nhãn mọng tươi
nhập cảng từ Á châu cũng làm tôi bùi ngùi. Tôi nghĩ đến những trái hơi
có tì vết mà không ai thèm mua kia cũng có thể là hàng xuất khẩu từ
Việt Nam, là tinh hoa chắt ra từ quê hương nghèo nàn của tôi, là loại
hàng "xuất khẩu" mà người đi làm bình thường như cha mẹ tôi không bao
giờ mua nổi.

Tuy thế, vấn đề lớn nhất tôi gặp phải trên đất Mỹ là một chuyện tôi
chưa hề nghĩ tới: đó là tình cảm của tôi với nước Mỹ đã làm tôi hoang
mang. Ngay từ nhỏ, những câu tục ngữ như "Con không chê cha mẹ khó,
chó không chê chủ nhà nghèo" đã thấm sâu vào lòng tôi. Cho dù tôi biết
chắc rằng tôi không liều mạng vượt biển vì miếng cơm manh áo, tôi ra
đi không phải vì tôi chê mẹ Việt Nam nghèo khó, nhưng trong trí óc cuả
một thiếu nữ đang trưỏng thành một mình trên miền đất mới, tôi cảm
thấy gần như...  có lỗi khi thấy mình càng ngày càng quen với đời sống
mới và thật sự yêu mến quê hương thứ hai này. Có lẽ cảm giác đó giống
như đưá con nuôi cuả một gia đình giàu có, một ngày kia trở về quê cũ
và cảm thấy băn khoăn khi bắt gặp mình ngập ngừng, xa lạ trước cha mẹ
ruột nghèo nàn xấu xí.

Không hiểu may mắn hay không may cho tôi là khi chiến tranh Việt Nam
đang diễn ra thì tôi còn nhỏ. Vì thế, trong lòng tôi không có cảm giác
hụt hẫng và đau đớn của nhiều người lớn khi bị "đồng minh Mỹ bỏ rơi".
Khi tôi nghe vài ngưòi nói rằng nước Mỹ cưu mang chúng ta không phải
vì họ tốt mà vì họ có trách nhiệm với người Việt, tôi hiểu tại sao họ
nghĩ thế nhưng tôi không cảm được. Tôi kính trọng suy tư riêng cuả mỗi
ngươì, nhưng riêng tôi, tôi thấy cái tinh tuý cuả hiệp chủng quốc vượt
khỏi những nhiệm kỳ tổng thống hay đảng phái. Tinh tuý đó đến từ những
nguơì dân Mỹ. Có lẽ tình cảm cuả tôi với nước Mỹ đã thành hình từ lúc
nhìn con tàu mang lá cờ Mỹ lớn dần từ phía chân trời trên Thái Bình
Dưong, từ khoảnh khắc thấy người lính Mỹ ôm chặt em bé nhớp nhúa ói
mửa vào lòng để đem lên tàu, từ khi anh thủy thủ ân cần dùng con dao
nhỏ cắt bớt chiếc dép cao su cho vừa chân tôi, từ hình ảnh người sĩ
quan trong bộ đồng phục trắng toát đang xắn quần, gò lưng kéo dây ghìm
cho thuyền nhỏ đứng yên để chúng tôi bước lên bờ biển Thái Lan, từ
hình ảnh những ngươì Mỹ đứng một hàng dài lưu luyến dõi theo đám
thuyền nhân chúng tôi đang lục tục đi vào trại mà còn cố ngoái lại
nhìn qua làn nước mắt.

Tôi tin rằng không phải vị thuyền trưởng nghĩ rằng người Mỹ có trách
nhiệm với chúng tôi, hay vì sự may mắn khi con cá nhỏ nhảy vào tàu mà
chúng tôi được vớt. Nước Mỹ có quyền không cho phép chiếc hàng không
mẫu hạm đi chệch hải đồ để cứu người, giống như bao con tàu khác đã
làm ngơ với những chuyến vượt biên kém may mắn. Hơn nữa, những gì
không thật sẽ không tồn tại lâu bền, cho nên tình cảm ban đầu cuả tôi
với nước Mỹ sẽ mất đi nếu tôi không càng ngày càng thấy Hoa Kỳ là một
đất nước bao dung. Tôi không ngây thơ nghĩ rằng - hay mong rằng - nước
Mỹ là hoàn hảo; nhưng với tôi nuớc Mỹ là một dòng sông mênh mông, đôi
khi cũng đem theo rác dơ, đôi khi cũng dậy sóng nguy hiểm, nhưng dòng
sông đó đã rộng lòng đem nước và phù sa đến cho những giống cây đến từ
khắp nơi có cơ hội đơm trái ngọt...

Người sống lâu ngày trong bình an, sung sướng thường quên rằng mình
may mắn. Người đàn ông đốt lá cờ Mỹ trên thềm nhà Quốc Hội chắc chỉ
nhớ đến những rác rưởi trong dòng sông, chắc ông ta không hiểu rằng
chỉ ở Hoa Kỳ ông ta mới dám chà đạp quốc kỳ ngay trước toà nhà lập
pháp mà không sợ rằng mình sẽ "ra đi không có ngày về". Ông ta chắc
chắn không biết rằng lá cờ đó đã khiến hải tặc Thái Lan buông chúng
tôi, đã quyết định giữa cuộc sống bình an ở Hoa Kỳ và cái chết - hay
một cuộc sống nô lệ trên xứ Thái đau khổ hơn cả cái chết - cuả hơn một
trăm người trên chiếc thuyền vượt biên vào một ngày hè năm 1983.

Thời gian trôi qua. Tôi đã lớn lên và đã hiểu ra rằng tôi không hề
phải chọn lựa giữa quê hương thứ nhất Việt Nam và quê hưong thứ hai
Hoa Kỳ. Tôi yêu mến đất nước Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã cưu mang tôi,
cho cây tôi lớn lên thành một cây quýt ngọt, và đất nước này không hề
phiền hà khi tôi đem chia xẻ trái ngọt đó với nơi tôi sinh ra. Tôi đâu
phải là cá hồi mà phải chọn lựa giưã sông và biển? Tinh thần cuả nước
Mỹ luôn khuyến khích mọi người góp sức làm thế giới tốt đẹp hơn và tôi
sẽ làm như thế. Tôi sẽ cố gắng để bằng cách này hay cách khác, trao
lại những may mắn và cơ hội mà tôi đã được trao. Hy vọng là tôi sẽ góp
phần để một ngày nào đó người dân Việt Nam không còn phải tìm cách ra
đi cho dù phải trả giá bằng tính mạng hay nhân phẩm.

Tôi yêu Việt Nam đã sinh thành ra tôi và tôi yêu Hoa Kỳ đã duỡng dục
tôi. Đôi khi tôi tẩn mẩn phân tích tình cảm cuả mình: với Việt Nam là
tình, với Hoa Kỳ là nghiã...  Rồi tôi lại loay hoay tự hỏi có phải như
vậy không, hay là ngược lại? Cuối cùng tôi bật cười, nghĩ mình thật là
lẩn thẩn, bởi vì tình cảm đâu cần gì phân loại và đặt tên.

Khôi An
Muà Giáng Sinh 2008

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Ls: Chuyến Di Tản Buồn (1/16/2009)
LS: Những con cào cào xanh (1/14/2009)
LS: Nợ Một Cuộc Đời (1/14/2009)
Ls: Tình Chiến Hữu (1/14/2009)
Ls: Tiếng Gọi Cấp Cứu Trong Đêm Giao Thừa (1/14/2009)
Tin/Bài cùng ngày
Ls: Chào Mẹ (1/13/2009)
Ls: Mẹ Chồng Tôi (1/13/2009)
Tin/Bài khác
Câu Chuyện Ptan # 10: Nỗi Buồn Mùa Thu (1/3/2017)
Ls: Ptan # 8: Ba Dòng Nước Mắt (1/3/2017)
Ls: Câu Chuyện Ptan # 6, Người Con Gái Phú Hòa (1/3/2017)
Ls: Cô Giáo Ngụy (1/12/2009)
Ls: Sàigòn Ngày Trở Lại (1/12/2009)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768