MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Collapse <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
top menu :: mẹ maria :: đề mục chính :: lịch sử
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Những Chuyện Bi Thảm Về Tết Mậu Thân 1968.
Thứ Ba, Ngày 30 tháng 12-2008

Những Chuyện Bi Thảm về Tết Mậu Thân 1968.

Trong bài trước chúng tôi đã đưa một số tài liệu chứng minh Hà Nội đã
quyết định chiếm Huế và giữ lâu dài, và diễn biến của các cuộc thảm
sát theo chỉ thị của Hà Nội. Trong bài này chúng tôi xin ghi lại một
số chuyện bi thảm đã xẩy ra trong Tết Mậu Thân và sau Tết Mậu Thân ở
Huế do một số nhân chứng kể lại.

Có lẽ cuốn sách viết đầy đủ hơn cả về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huếlà
cuốn "The Vietcong Massacre at Hue" (Cuộc thảm sát của Việt Cộng ở
Huế) xuất bản năm 1976 của Bác Sĩ Elje Vannema, người có mặt ở Huế khi
biến cố xẩy ra. Mới đây, hai linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải
có đưa ra lời khai của một nhân chứng dấu tên kể lại vụ thảm sát ở Khe
Đá Mài. Đọc câu chuyện này chúng tôi thấy gióng hệt câu chuyện do một
người có bí danh là Lương đã kể và được Bác Sĩ Elje Vannema ghi lại
trong cuốn "The Vietcong Massacre at Hue", chỉ thêm bớt một số chi
tiết. Chúng tôi tin câu chuyện do Bác Sĩ Elje Vannema và Linh mục Phan
Văn Lợi ghi lại cùng do một người kể. Đây là một câu chuyện rất bi
thảm.

Lời tường thuật của các nhân chứng khác, Việt Nam cũng như ngoại quốc,
cũng sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn sự dã man của các cuộc thàm sát.

CHUYỆN Ở GIA HỘI

Trong một bài tường thuật dười đầu đề "Mậu Thân: Nỗi Đau Không Dứt Của
Huế", cụ Lê Hàn Sinh, người chứng kiến các cuộc thảm sát ở Gia Hội,
Huế, đã cho chúng ta thấy các cuộc thảm sát đó đã được tiến hành như
thế nào. Cụ viết:

"Với người dân Huế, khi nhắc đến hai chữ Mậu Thân, gần như nó không
còn gắn liền theo thứ tự của mười hai con giáp, mà là một tiếng gọi
đặc biệt, tượng trưng cho một cuộc tàn sát man rợ.

Thủ tiêu, ám sát, chôn sống, giết người bằng mã tấu, bằng bọng cuốc
phang vào sau đầu, trói bằng dây thép gai. Cụ thể là ở khu phố 4 Gia
Hội (sau khi chiếm Huế Cộng Sản chia thành phố ra làm 4 khu) với tên
thợ nề vô học tên Bé được giữ chức chủ tịch khu phố. Mọi sinh sát nằm
trong tay y. Ước lượng nạn nhân của bọn này lên tới hàng trăm. Vì tư
thù cá nhân, chúng giết cả những thường dân vô tội.

Cái chết của bà Trâm ở đường Mạc Đĩnh Chi (đường Ngự Viên) là một thí
dụ. Bà bị thị Gái bắn bằng súng AK ngay tại nhà. Gái nguyên là Việt
Cộng nằm vùng chuyên đi giúp việc quanh các nhà ở phường Phú Cát, Quận
2. Tuy là đi giúp việc nhưng lúc nào áo quần cũng bảnh bao, tóc búi
kiểu Lào. Gái vì dây dưa với chồng bà Trâm nên bị bà này mắng chửi
thậm tệ và hình như cũng có đánh đập gì đó nên giờ Gái trả thù món nợ
tình ngày trước.

Cũng cần nói thêm về tên Bé thợ nề. Không ai biết xuất xứ của hắn. Y
hành nghề một cách độc lập, rất lương tâm; làm từ 7 giờ sáng tới 6 giờ
chiều, không nghỉ trưa, ăn uống thế nào cũng được, tiền công không đòi
cao hơn kẻ khác. Do vậy, người này làm xong lại giới thiệu cho bạn bè.
Cứ thế mà Bé âm thầm điều tra nắm rõ ai làm gì ở đâu, cơ quan nào...
để báo cáo cho tổ chức. Nhờ thế, khi Việt Cộng vào là chúng đã có một
danh sách khá đủ thành phần mà chúng cho là quan trọng để thanh toán
ngay sáng mùng một Tết, không cần phải gọi ra trình diện tại trường
Gia Hội.

Người đi bắt và bắn chết không ai khác hơn tên Linh (Diệu Linh), người
Quảng Ngãi làm nghề thầy bói, khoác áo Việt Nam Quốc Dân Đảng Thừa
Thiên. Thời gian bầu cử tổng thống lúc ông Vũ Hồng Khanh về Huế vận
động, chính y là người ngồi cùng xe bên cạnh ông Khanh. Nghe đâu y
cũng là cộng tác viên cho cảnh sát đặc biệt Thừa Thiên. Sáng mùng một,
hắn bận complet màu đà (bộ hắn vẫn thường mặc) tới nhà tìm tôi nhưng
không gặp.

Cho tới nay tôi vẫn không hiểu tại sao mà ông Rớt (có bà vợ bán bún bò
ngon nhất Huế) ở trên đường Nguyễn Du lại bị bọn Linh bắn chết. (Người
chung quanh nghi ông làm cộng tác viên cho cảnh sát và nghe đâu ông
xin được chết gần gia đình nên chúng bắn ông tại nhà).

Mãi cho đến ngày 20 tháng giêng bọn chúng mới bắt đầu làm mạnh, nghĩa
là ra lệnh trình diện lần hai rồi giữ lại thủ tiêu luôn.

Trên đường Gia Hội (tức đường Chi Lăng) bọn chúng bắt giết anh Lê Văn
Cư, nguyên là Phó giám đốc cảnh sát quốc gia vùng một và anh Phú (em
vợ anh Cư), Quận Trưởng Quận 2. Cả hai bị bắn cùng một lần. Cũng trên
đường này anh Dự hình như đang làm trưởng ty cảnh sát Phan Rang về
thăm nhà cũng bị bắt giết. Võ Nguyên Pha, nhà ở ngay sau lưng chùa
Diệu Đế, nghe đâu đã trốn sang hữu ngạn rồi lại sốt ruột vì vợ con,
trở về để lãnh bản án tử hình.

Câu chuyện cái chết của anh Từ Tôn Kháng, Thiếu tá Tỉnh đoàn trưởng
Xây Dựng Nông Thôn Thừa Thiên, không biết thực hư đến mức nào. Nghe
đâu Cộng Sản bao vây nhà anh, tra khảo bắt chị Kháng chỉ chỗ ẩn của
chồng nếu không thì phải chết. Anh Kháng nằm núp trên máng nước, đành
phải xuống (có người bảo chị đã chỉ chỗ ẩn của chồng. Hoàn cảnh này dù
có xảy ra thì tôi nghĩ cũng không nên buộc tội chị).

Ở đường Võ Tánh có anh Vĩnh sĩ quan cảnh sát bị bắn chết ngay nhà, mấy
năm sau tôi vẫn thấy ngôi mộ đất vẫn còn nằm ngay trước cổng nhà. Nhà
anh Vĩnh nằm ngay cạnh chùa Áo Vàng, nơi Cộng Sản làm trụ sở trình
diện cho các công viên chức và sĩ quan quân đội cộng hòa, nên không
trốn vào đâu được. Gần đó có anh Hồ Đắc Cam, làm công nhân nhà đèn
Huế, bị bắn vì có tên trong Đại Việt Quốc Dân Đảng. Điều đáng buồn là
anh Cam bị anh Kim Phát, cũng đảng viên Đại Việt, khai ra. Cộng Sản
biết Kim Phát là người Đại Việt nên bắt anh phải khai những người
trong tổ chức. Anh đến nhà tôi đầu tiên nhưng tôi không có ở nhà. Sau
đó Kim Phát cũng chịu chung số phận như bạn bè.

Đường Bạch Đằng có anh Hiền, một lão tướng đá bóng trong hội S.E.P.H
của Huế thời thập niên 40. Anh chẳng liên hệ gì tới chính quyền thế mà
bị giết. Người ta đoán anh bị bắn vì trước đó đã tạt tai một thằng bé
gần nhà. Tên này sau khi Cộng Sản vào tham gia thanh niên khu phố nên
có dịp trả thù.

Không ít người chết vì không hiểu Cộng Sản, tưởng cộng tác với chúng
là được tha. Điển hình là ông Soạn làm Chủ tịch phường Phú Cát, Quận 2
và hai anh em song sanh tên Lan (con ông Sâm cho mượn đồ đưa đám tang
trên đường Chi Lăng); một trong hai người này làm cảnh sát.

Theo nằm vùng cộng sản nhận định, nhóm tiểu thương chợ Đông Ba là lực
lượng yểm trợ mạnh nhất trong cuộc đấu tranh Phật giáo ở Huế vào các
năm 1963 và 1966. Vì thế để lấy lòng nhóm này chúng lôi anh Phú ra
giết. Anh Phú có phần hùn đấu thuế chợ Đông Ba nên vẫn hay ra thu thuế
bạn hàng. Tưởng thế, nhưng cái chết của Phú chẳng gây phản ứng nào nơi
nhóm tiểu thương..."

Ở các khu khác, câu chuyện thảm sát cũng đã xẩy ra gióng hệt như thế.

TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN KHE ĐÁ MÀI

Trong cuốn "The Vietcong Massacre at Hue" (Cuộc thảm sát của Việt Cộng
ở Huế) Bác Sĩ Elje Vannema đã ghi lại câu chuyện các nạn nhân đã bị
dẫn đi thảm sát trên đường từ chùa Từ Đàm đến Khe Đá Mài do một nhân
chứng chạy thoát được kể lại. Đọc câu chuyện này, không ai không cảm
thấy đau lòng và tự hỏi tại sao Cộng Sản đã hành động dã man như vậy.
Vì bài báo có giới hạn, chúng tôi chỉ ghi lại những đoạn quan trọng:

Bên trong nhà thờ chính tòa Phủ Cam, đàn ông và thiếu niên được lệnh
sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống. Từ nhà thờ họ
băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Đàm. Bị giữ ở đấy một ngày rồi
lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Đàn bà trẻ con nhao lên
nhưng được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài
thành. Một số bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người
ra đi có anh lính trẻ Cộng Hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện
này).

Ngày kế tiếp, cuộc hành trình kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên
rời Từ Đàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng Đông Nam. Sáu cây số đường đi
mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai nói với ai. Chỉ một
lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó: "Ta đi mô đây?". Có
tiếng phụ họa: "Lên núi hay tới chỗ chết?".

Bộ đội Mặt Trận nói là họ được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi
đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người tin rằng có lẽ đời mình sắp kết
thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bổng ngã quỵ. Cho tới lúc đó anh không
biết có ông già đi bên mình. "Bắt gió cho ông ta", tiếng ai đó vang
lên... Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới.

Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào:
"Xin để tui ở lại đây. Tui không đi xa hơn được nữa!" Ông van xin, bàn
tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác. Có lệnh: "Đứng dậy!".

Ông già gượng dậy, cố thẳng người thêm được vài bước rồi lại ngã.
Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp ông ra lề đường rồi bỏ đi.
Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một tiếng kêu yếu ớt
vang lên... Xác ông được dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh
lấp đất. Một tháng sau xác ông được đồng bào khám phá.

Vô vọng, đoàn người bước đi càng lúc càng chậm, câm lặng, uất nén.
Người gác cứ hối thúc. Rồi có tiếng hô: "Dừng lại!". Lương thấy đám
người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới
đích!

Đám canh gác phía sau miệng là hét thúc những những người còn lại đi
nhanh hơn, chân họ đá vào sườn những kẻ đi chậm...  Sau này, Lương nhớ
lại mình đã đi qua thôn Tu Tay.

Ít lâu sau, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước. Hợ bị tố cáo có
tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số
phận của họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được
lệnh đi về phía lăng Đồng Khánh.

Sau một giờ đi, một nhóm nạn nhân được lệnh dừng lại và được chia
thành hai nhóm nhỏ. Họ được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào đã hai, ba
tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Người gác nói: "Hố
đào là để trú ẩn và làm mương dẫn nước." Có lẽ họ đào mồ cho lớp người
tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi!

Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do
quỷ ma mà do chính con người tạo ra. Thoạt tiên, Lương nghĩ chắc mình
sẽ không qua khỏi. Dù vậy, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt
vọng, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách thoát thân. Hai người thất
thần nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có
kẻ bị bệnh... Không ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang
chìm trong bóng tối sau lưng họ.

Một tiếng nổ kèm với tiếng la vang lên! Thần chết vây bủa không gian.
Tại sao mình ở đây? Đa số họ là công giáo, chả ai quan tâm tới chính
trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải vào lính như bao nhiều thanh
niên Việt Nam và các thanh niên khác trên khắp thế giới đến tuổi như
họ.

Sau khi đào xong một hố rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để
nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một số la thét lên vì sợ. Lương thấy
người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm nay bật khóc nức nở. Một
người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương hoảng hốt. Chân
anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ gác đầy
dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát.

Ác mộng tiếp tục. Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng.
Lương ở trong một đám khá đông đang bước đi. Đám người khập khễnh lê
lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống đụn cát phía Nam. Khi họ xuống
đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên đạn rít bên tai. Anh
phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la hét. Chỉ vài
phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía Đông.
Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuấy động bởi trái sáng thả từ máy
bay và tiếng đại bác. Sáng ra, anh thấy mình băng qua một con đường
sắt. Từ đó anh tiếp tục đi tới quốc lộ, lòng mong sớm thoát được vùng
tử địa. Xế chiều anh tới con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mải
tới ngày 16/2, Lương mới về lại được thành và kể cho chị Kim những gì
đã xảy ra...

Người ta đoán rằng đám nạn nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa
về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây cối khó đi. Mải tới trung tuần
tháng 9 năm 1969 người ta mới tìm thấy xác họ trong một con suối nhỏ,
khe Đá Mài, con suối chảy ra khe Đại đổ vào sông Hương... Trong số 428
bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu
khác, gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình
đã chấm dứt cuộc đời nơi khe suối này...

VỤ CÁC BÁC SĨ NGƯỜI ĐỨC

Trong số các nạn nhân bị thảm sát trong Tết Mậu thân, người ta thấy có
cả những người ngoại quốc như bốn người Đức dạy ở Đại Học Y Khoa Huế:
Bác sĩ và bà Hort Gunther Krainick, Bác sĩ Raimund Discher, và Bác sĩ
Alois Alterkoster. Họ bị bắt ngày 5.2.1968 và về sau người ta tìm thấy
xác họ ở gần chùa Tường Vân. Bác Sĩ Elje Vannema đã kể lại như sau:

Các bác sĩ đều là người công giáo và họ đã đến Việt Nam dưới thời ông
Ngô Đình Diệm. Sau khi ông Diệm bị lật đổ họ được khuyên nên rời khỏi
Việt Nam, nhưng đã được mời ở lại ngay sau khi tình hình lắng dịu...

Bác sĩ Discher là người tới sau cùng, và hai vợ chống ông chẳng bao
giờ nói tới chuyện chính trị. Ông vừa đưa vợ và con về Đức và mới trở
lại Việt Nam trong tháng giêng 1968. Khi tới Hàng Không Việt Nam đặt
vé đi ngày 24 tháng giêng, người ta khuyên ông chớ nên ra Huế, vì tình
hình không ổn. Nhưng ông nói ông phải có mặt với sinh viên, mặc dù lúc
đó còn đang là mùa nghỉ Tết. Hàng Không Việt Nam không bay. ông liền
sang đi nhờ máy bay Mỹ ra Huế.

Ông và ba giáo sư người Đức khác đã bị bắt sau khi Cộng quân chiếm
Huế. Họ được đưa về Chùa Từ Đàm ở phía nam thành phố. Ngày hôm sau họ
được chuyển tới Chùa Tăng Quang Tự, rồi đưa qua một chùa nhỏ có tên là
Tường Vân. Chùa này được bao bọc bởi vài căn chòi, nằm cách Tăng Quang
Tự độ một dặm. Cha Châu, một linh mục công giáo làm việc với tôi hồi
còn ở trường Pellerin, ngày mồng 6 tháng 2 được yêu cầu chuẩn bị "thúc
ăn Mỹ" cho các bác sĩ Đức. Ngày 7 tháng 2, một ký giả Đức theo chân
các thành viên của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo (ICC) cố vào tìm các bác
sĩ tại căn nhà họ ở trước đây, nhưng bị lính Mỹ cản. Ngay cả vào để
dọn đồ cũng không được phép. Tôi bước tới cách nhà độ 15 mét thì một
anh lính Mỹ chĩa súng vào người và nói: "Ông kia... quay ra". Khi tôi
bảo tôi có quyền vào nhận diện dấu vết những gì đã xây ra, anh lính
này dí súng bảo tôi đi. Họ bận rộn khiêng vác bàn ghế, tranh ảnh và
một tấm gương ra khỏi nhà. Mãi tới đầu tháng 4 thì một sinh viên y
khoa tên Anh, được một vị sư có tên là Châu báo cho biết có một ngôi
mộ trong miếng đất nằm giữa cây cối, cách Chùa Tường Vân nửa dặm về
phía nam. Anh và hai sinh viên nữa đã tới đó vào chập tối. Vì quá trễ
nên ngày hôm sau họ quay trở lại, đào xác các thầy mình lên và chuyền
về Sài gòn để hai bác sĩ người Pháp nhận diện. Vê sau, bác sĩ Le Hir
cho tôi hay có nhiều vết thương nơi đầu và thân mình, nhưng vết thương
kết liễu là viên đạn xuyên qua đầu và ót Tháng năm, Toà Đại Đứ Đức ở
Sài Gòn chính thức thông báo rằng các công dân của họ đã bị hành
quyết...

Sau này, Sư Châu kể rằng một trong các chú tiểu của ông thấy người ta
đào hố và nghe thấy tiếng súng. Ngày hôm sau chú đi ra xem thấy những
nấm đất mới. Vì quá sợ nên mãi mấy tuần sau mới dám hé môi.

Riêng Bác Sĩ Erich Wulff, cũng đến dạy y khoa ở Đại Học Huế năm 1961
như ba bác sĩ Đức khác. Nhưng ông đã tích cực ủng hộ phong trào đấu
tranh của Phật Giáo, do đó sau cuộc nổi loạn của Phật Giáo ở Huế và Đà
Nẵng năm 1966 bị thất bại, ông đã rời Việt Nam năm 1967, nhờ vậy ông
thoát chết. Bác Sĩ Discher đến thay ông nên gặp nạn.

NHẬN RA ĐƯỢC SỰ THẬT

Tạp chí Time, số ra ngày 5.4.1968 có đăng bài "An efficient massacre"
(Một cuộc tàn sát có hiệu quả) của ký giả Stewart Harris. Tạp chí Time
đã giới thiệu Harris như là một ký giả người Anh chống lại chính sách
của Hoa Kỳ tại Việt Nam, Nhưng sau khi đến Huế để điều tra cuộc thảm
sát của Việt Cộng trong Tết Mậu Thân, ông đã nhận ra được sự thật và
ghi lại như sau:

Vào buổi chiều nắng đẹp, tại một thung lũng xanh cỏ ở vùng Nam Hoà,
cách phía nam Huế 10 dặm, tôi cùng chuẩn uý Ostara, một cố vấn quân sự
của quân đội VNCH, đứng trên sườn đồi đầy những lỗ vừa mới đào. Dưới
chân đồi là những tấm chiếu phủ trên bạt ni lông. Ostara lật chiếu
lên, tôi thấy hai xác người, tay họ bị trói phía trên cùi chỏ, giật
ngược về phía sau. Nạn nhân bị bắn từ phía sau đầu, đạn trổ ra đằng
miệng. Khó mà nhận diện được nạn nhân. Ngày hôm trước, 27 người đàn bà
trong làng đã vác cuốc chim đi đào xới kiếm xác chồng con họ ở một nơi
cách làng 3 dặm, sau khi nghe nói có người nghe tiếng đào xới đất đá ở
cạnh con đường mà Việt Cộng đã đi qua để đến Huế. Việt Cộng đã bắt đi
27 người, trong đó có vài người là viên chức trong làng và một số là
thanh thiếu niên, để làm phu khuân vác, hay để xung vào bộ đội của
chúng.

Bob Kelly, một cố vấn cao cấp của tỉnh Thừa Thiên cho biết, các nạn
nhân chỉ đơn giản bị tòa án nhân dân kết án một cách vội vã rồi bị xử
tử với tội danh: "Kẻ thù của nhân dân". Họ là những viên chức xã ấp,
thường là ở cấp thấp. Một số người khác bị giết vì họ không còn hữu
ích cho Việt Cộng, hoặc không cộng tác với chúng. Vài cộng tác viên
của ông Bob Kelly bị phanh thây một cách thảm khốc. Ông Bob Kelly cho
rằng những người này bị chặt ra thành từng khúc sau khi họ đã bị giết.
Nạn nhân bi trói và bị bắn từ phía sau đầu. Ông Kelly đã giúp đào xới
tìm xác một nạn nhân. Ông Bob Kelly đã nói với người viết bài này rằng
một người Việt Nam mà ông hằng kính trọng cho biết, một số nạn nhân đã
bị chôn sống.

Trung Uý Gregory Sharp, một cố vấn Hoa Kỳ của tiểu đoàn 21 Biệt Động
Quân cho tôi biết, hôm 14 tháng 3, binh sĩ của ông ta đã tình cờ khám
phá ra 25 ngôi mộ mới trong một nghĩa trang ở cách Huế 5 dặm về hướng
đông. Trong số những ngôi mộ đó, có đến 6, 7 nạn nhân bị chôn ngập đến
cổ, đầu nhô lên khỏi mặt đất. Theo Trung Uý Sharp thì hình hài nạn
nhân chẳng còn nguyên vẹn, vì đã bị kên kên và chó tranh nhau xâu xé.
Trung Úy Sharp cho biết, một số nạn nhân bị bắn vào đầu, một số khác
không bị bắn, mà bị chôn sống. Cũng theo viên trung úy này thì ở một
vài nơi ông ta đã thấy những vệt kéo trên mặt cát, như thể nạn nhân cố
bám vào mặt đất khi bị kéo lê. Ở Khu Tả Ngạn, 3 sĩ quan Úc đã tìm thấy
7 thi hài trong 3 hố chôn. Những người này bị trói thúc ké và bị bắn
từ phía sau đầu. Ngay sau khi đến Huế, tôi đã dùng xe jeep đi chung
với 3 sĩ quan Việt Nam để xem xét một vài địa điểm đang khai quật tìm
kiếm thi hài nạn nhân của vụ thảm sát. Đầu tiên chúng tôi đến Trường
Trung Học Gia Hội ở Quận 2, phía đông Huế. Ở đó người ta đã tìm thấy
22 hố chôn mới. Mỗi hố có từ 3 đến 7 nạn nhân. Không khí kinh hoàng
vẫn bao trùm khu vực này. Các sĩ quan cho tôi biết, các nạn nhân đều
bị trói, bị bắn từ phía sau đầu, hoặc bị chôn sống như ở những nơi
khác.

Điều gì đã xẩy ra đối với khoảng 40 ngàn dân Công Giáo ở Huế? Ba phần
tư số giáo dân này sống ở vùng Phủ Cam, khu ngoại ô phía Nam thành phố
Huế. Họ đã chống cự mãnh liệt khi Việt Cộng đến, một số bị giết chết.
Bốn giáo sĩ Việt Nam bị bắt đem đi, ba giáo sĩ ngoại quốc bị giết. Hai
giáo sĩ người Pháp được Việt Cộng cho phép trở lại Phủ Cam để giúp các
bà sơ, nhưng họ đã bị giết trên đường về. Một giáo sĩ người Pháp bị
hành quyết có lẽ vì ông ta là Tuyên Uý của Quân Đội Hoa Kỳ.

 

CUỘC TÌM XÁC VÀ CẢI TÁNG

Trong cuốn "Vietcong Stratregy of Terror" (Chiến lược khủng bố của
Việt Cộng), Giáo Sư Douglas Pike đã mô tả cuộc tìm xác của các nạn
nhân ở Khe Đá Mài như sau:

"Binh đoàn 101 Không Vận HK thấy không thể dùng đường bộ đến khe Đá
Mài. Đường không có lối ra và không đi qua được. Tầng lá cây dày đặc,
ở VN người ta gọi đó là cái lọng đôi, nghĩa là có hai tầng lá, một ở
gần mặt đất, gồm cây và bụi rậm, và một tầng lá cao, che phủ bên trên.
Bên dưới chỉ có ánh sáng lờ mờ. Công Binh Quân đội Hoa Kỳ đã phải mất
hai ngày để chọc thủng một cái lỗ xuyên qua cái lộng đôi bằng cách cho
trực thăng bay lưng chừng bên trên rồi thòng chất nổ xuống qua khỏi
các tầng lá cây và cho nổ để tạo lỗ trống cho những chiếc trực thăng
hốt cốt có thể đáp xuống được. Rõ ràng đây là nơi xác chết có thể được
giấu kín không cần chôn cất.

"Trên một đoạn khe dài hơn một trăm mét là sọ người chết, các bộ xương
và các mãnh xương người. Xác chết được để trên mặt đất (theo thuyết
vật linh, linh hồn của những người không được chôn cất sẽ đi lang
thang mãi mãi trên trái đất), và trong vòng 20 tháng, nước suối chảy
đã làm cho xương sạch trơn và trắng bạch."

 

Trong bài "Mậu Thân 1968: Cải táng đồng bào bị thảm sát", ông Võ Ngọc
Tụng, Quận Trưởng Quận Phú Thứ ở Thừa Thiên, đã kể lại câu chuyện ông
đi tìm các hố chôn tập thể và cải táng các nạn nhân như sau:

Khi biến cố Tết Mậu Thân xảy ra, tôi là một sĩ quan thuộc Phòng 3 Bộ
Tham Mưu Sư Đoàn I bộ binh đóng tại Mang Cá, Thành Nội Huế, nơi duy
nhất không bị Cộng Sản chiếm trong đêm đầu, tức đêm mồng 1 Tết.

Sau đó, tôi được biệt phái qua Tiểu Khu Thừa Thiên đi làm Quận Trưởng
kiêm Chi Khu Trưởng Phú Thứ - một trong ba quận có nhiều mồ chọn tập
thể dân Huế. Đó là các quận Phú Vang, Phú Thứ và Nam Hoà tỉnh Thừa
Thiên.

Vùng có nhiều hố chôn tập thể hơn cả là vùng cát gần các thôn Xuân Ô,
Xuân Đợi, Ba Lăng, Quảng Xuyên, Lương Viện, Viễn Trình. Nạn nhân bị
bắt được CS dẫn đi theo hai lộ trình chính: Một lên hướng Nam Hoà đi
vào khe Đá Mài (nhiều trăm xác được tìm thấy tại đây). Hai qua ngã Chợ
Cống hoặc Dạ Lê rồi đi về các vùng Đông Đổ, Ba Lăng, Lương Viện,
Trường Hà, Mộc Tụ thuộc quận Phú Thứ.

Việc tìm kiếm các hố chôn tập thể có nhiều cách. Một trong những cách
đó là dân theo hướng những tiếng rú hãi hùng trong đêm. Bởi khi bị dồn
thành hàng dưới các hố rãnh, biết rằng mình sẽ bị hành hình nên các
nạn nhân đã rú lên kinh hoàng. Dân các làng chung quanh tùy theo chiều
gió đã nghe rất rõ những tiếng rú ấy trong đêm khuya.

Mỗi cuộc cải táng phải có sự phối hợp chu đáo giữa xã, quận và tỉnh.

Trước hết phải thành lập các toán nhận dạng nạn nhân. Họ là những
người chuyên môn và tình nguyện, thường là một nhóm 6 người gồm 3
người đặc trách nhận dạng. Khi lấy xác lên, họ tìm kiếm giấy tờ nếu
có, kiểu và màu sắc áo quần, giới tính, tóc, răng hay những điểm nổi
bật khác.

Sau ba, bốn ngày hoặc ngắn hơn tùy theo số lượng xác tìm được vượt quá
số từ 500 - 600, một lễ cải táng được tổ chức trang nghiêm để đưa lên
nghĩa trang Ba Đồn, Ba Tầng gần Nam Giao. Rất nhiều xe GMC được trưng
dụng, mỗi xe chở 10 "tiểu" có gắn biểu ngữ, cờ tang và có ban nhạc đi
theo.

Lần tổ chức cải táng sau cùng ở Phú Thứ để dời lên nghĩa trang Ba Đồn
và Ba Tầng, người ta đã tìm được 454 xác, trong đó có một hố với 4 xác
chôn sống của 2 linh mục và 2 thầy đại chủng viện. Đó đó là xác linh
mục Bửu Đồng và linh mục Đẳng, còn lại hai thầy tôi không nhớ tên. Vì
có cảm tình riêng với linh mục Bửu Đồng, tôi đã dò theo dấu vết ngài
từ họ Sư Lỡ qua các thôn ấp, gia đình ngài trú ngụ và cuối cùng dẫn ra
chỗ chôn ngài. Trên người ngài còn đủ cả giấy tờ và hình ảnh với 1 lá
thư do chính tay ngài viết gởi cho mẹ. Lần đào xác nầy có một số ký
giả ngoại quốc đến Bộ Chỉ Huy tại Quận Phú Thứ. Tôi có ý định mời họ
đến tận nơi quan sát nhưng vì mỗi lần tổ chức, CS tăng gia hoạt động
để phá hoại an ninh và việc cải táng nên các ký giả không thể đến nơi
để thấy tận mắt được..."

 

Ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết
Mậu Thân, đã hồi tưởng: "Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10
đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi,
lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài
còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành
chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người
đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng." (RFA
31.1.2008).

 

RẬP KHUÔN THEO LÉNIN

Như chúng tôi đã trình bày, Đảng CSVN muốn tạo sự kinh hoàng trong
quần chúng để mọi người hoảng sợ và tuân phục, nên đã ra lệnh thực
hiện những cuộc tàn sát dã man như thế. Đây là chính sách mà Lénin đã
áp dụng tại Liên Sô trước đây.

Trong quyển "The Unknown Lenin", ông Richard Pipes, Giáo sư Sử Học Nga
thuộc Harvard University, ghi nhận rằng yếu tố lạnh người nhất là
Lenin đã ra lệnh "tạo sự kinh hoàng" trong quần chúng trên toàn quốc.
Hồi đầu tháng 9/1918, Lenin viết: "Cần thiết và khẩn cấp chuẩn bị cho
sự kinh hoàng, một cách bí mật". Tháng 8/1919, Lenin chỉ thị cho bọn
cầm quyền tỉnh Penza phải treo cổ ít nhất 100 người, một cách công
khai. Lénin truyền lệnh: "Hãy thực hiện chuyện này bằng một phương
cách mà người ta sẽ thấy, từ xa hàng trăm dặm, run sợ, biết đến, và
gào thét. Họ bị treo cổ, và sẽ treo cổ đến chết bọn địa chủ hút máu".

Đảng CSVN cũng bắt chước đường lối này khi nghĩ rằng có thể chiếm giữ
Huế lâu dài.

Người Cam-bốt có hai tác phẩm danh tiếng nói lên tội ác diệt chủng của
Khmer Đỏ, đó là cuốn "Survival in the Killing Fields" (Sống còn trong
Các Cánh Đồng Chết) của Haing Ngor, Roger Warner, và cuốn "When Broken
Glass Floats – Growing up under the Khmer Rouge" (Khi mảnh chai nổi
lên – Lớn lên dưới chế độ Khmer Đỏ) của Chanrithy Him. Cuốn "Survival
in the Killing Fields" đã được đóng thành phim dưới cái tên "Killing
Field". Hai tác phẩm này đã đánh động được lương tâm nhân loại, nên
ngày nay các lãnh tụ Khmer Đỏ đang phải ra trước tòa án hình sự để bị
trừng phạt về tội diệt chủng và tội ác chống nhân loại.

Người Việt "quốc gia chống cộng" có trình độ văn hóa và cuộc sống cao
hơn người Cam-bốt, nhưng ngoài những bài chửi Cộng Sản bằng dao to búa
lớn, không có một tác phẩm nào nói về tội ác của CSVN trong Tết Mậu
Thân có giá trị tư pháp hay sử liệu như hai tác phẩm nói trên, nên
những kẻ phạm tội vẫn còn ung dung tại vị. Đó là một điều đáng buồn,
rất đáng buồn!

Tú Gàn

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Gcm 447: Audio Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ (toàn Bô Câu Chuyện) (1/3/2009)
Radio Gcm 486: Audio Ở Cuối Hai Con Đường, # 2 (1/3/2009)
Radio Gcm 485: Audio Ở Cuối Hai Con Đường, # 1 (1/3/2009)
Ls: Thảm Sát Trên Đảo Trường Sa : Chuyện Chưa Bao Giờ Kể (1/1/2009)
Mẹ Và Tình Yêu (12/31/2008)
Tin/Bài cùng ngày
Vị Nữ Tu Sống Chết Vì Người Nghèo. (12/30/2008)
Ls: Vị Linh Mục Can Trường, Bất Khuất. (12/30/2008)
Tin/Bài khác
Ls: Câu Chuyện # 7 Ptan : Chuyện Một Người Bạn Học: (1/3/2017)
Ls: Ảnh Tượng Mẹ (12/29/2008)
Ls: Vị Linh Mục Đáng Kính. (12/28/2008)
Ls: Trận Đói Năm Ất Dậu (12/27/2008)
Ls: Nạn Đói Năm Ất Dậu, 60 Năm Về Trước (12/27/2008)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768