Nhân Mùa Giáng
Sinh:
TÌM HIỂU NGÀY 'SINH NHẬT' CỦA CHÚA GIÊSU KITÔ.
______________________________________
(Linh Mục
Anphong Trần Đức Phương)
Tại Hoa Kỳ,
cứ sau lễ Tạ Ơn (Thanksgiving) nhiều gia đình
và nhà hàng bắt đầu trang hoàng trong nhà, cũng như
trước cửa nhà để chuẩn bị vào mùa Lễ
Lớn: Đại Lễ Giáng Sinh và Năm Mới sắp tới.
Một cách đơn giản chúng ta thường hiểu Lễ
Giáng Sinh là ngày lễ mừng 'Sinh Nhật' (Birthday) của
Chúa Giêsu (Thí dụ, ngày 25 tháng 12, 2008 là ngày sinh nhật thứ
2008 của Chúa Giêsu). Tuy nhiên, nghiên cứu lịch sử về
ngày lễ nầy, chúng ta thấy có những điều
không hẳn đơn giản như vậy.
Một chút lịch sử ơn cứu độ.
Theo truyền
thống Do Thái mà nền tảng là Thánh Kinh Cựu Ứơc,
sau khi tổ tông (Thủy tổ) loài người là ông Adong
và bà Eva sa ngã phạm tội, liền bị mất ân
nghĩa với Thiên Chúa (Sách Sáng Thế 3:23). Tuy nhiên vì
"Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh
của Chúa" (ST 1:27), Ngài không để con người
phải án phạt đời đời, nên Ngài đã hứa
ban một Đấng Cứu Thế đến để
cứu chuộc tội lỗi nhân loại (ST 3:15) và danh hiệu
của Ngài là 'Đấng Cứu Tinh' (Messiah). Nguyên ngữ trong tiếng Do Thái 'Messiah' có
nghĩa là 'Đấng được xức dầu'.
Theo thói tục của người Do Thái thì ai được
chọn làm 'Vua' làm 'Tiên Tri' (Prophet) làm thầy 'Tư Tế'
đều được phong chức chính thức bằng
việc xức dầu (thánh) (dầu ô liu) trên đầu. Danh từ 'Messiah' chuyển dịch qua tiếng Hy
Lạp là 'Christos'. Danh từ 'Christos' chuyển
sang tiếng Latinh là 'Christus' và sang tiếng Pháp, tiếng Anh
là 'Christ', Tiếng Việt Nam (theo các bản dịch Thánh
Kinh của Công Giáo và các sách đạo đức) chuyển
dịch là 'Kitô' (hay Kytô).
Theo
Do Thái Gíáo thì Đấng 'Messiah' (Kitô) chưa tới cứu
độ Dân Ngài. Hàng năm
người Do Thái vẫn đến bên bức 'Tường
Khóc' để cầu nguyện xin 'Đấng Cứu
Độ' đến.
Theo Kitô Giáo thì
'Đấng Kitô' đã Giáng Sinh, và khi Ngài sinh ra thì được
đặt tên là 'Giêsu' (Jesus) theo như lời Sứ thần
truyền tin cho Đức Maria (Luca 1:31 và 2:21). Danh từ
'Giêsu' theo nguyên ngữ Do Thái có nghĩa là
'Đấng Cứu Độ' (Savior). Vì Chúa
'Giêsu' chính là 'Đấng Kitô' Thiên Chúa đã hứa, nên tên
Ngài thường được gọi là 'Giêsu Kitô'. Thánh Phaolô trong các thơ gửi các giáo đoàn
thường dùng danh hiệu 'Giêsu Kitô'. Chúng ta cũng
nên lưu ý là vào thời xưa một người chỉ
có 'tên gọi', chưa có 'tên họ' và 'tên đệm';
nhưng có những 'tên hiệu' ghép vào 'tên gọi' trong một
số trường hợp, nhất là trường hợp
của các vua chúa hay các 'Danh Nhân'.
Theo Kinh Thánh, Chúa Giêsu cũng
được gọi là 'Emmanuel' hay 'Immanuel' (
Luca 1:23). Danh từ 'Emmanuel' trong tiếng
Do Thái có nghĩa là 'Thiên Chúa ở cùng chúng ta'. Danh hiệu
'Emmanuel'đã được Tiên Tri Isaia (740-687 B.C.) nói đến
( Isaia 7:14).
Chúa Giêsu sinh ra năm nào?
Năm Thiên
Chúa Giáng Sinh làm người được kể là năm
thứ nhất theo lịch chung chúng ta
dùng hiện nay; như thế sinh nhật của Ngài đã
chia đôi lịch sử nhân loại.
Theo lịch sử
Thánh Kinh thì từ 'tạo thiên lập địa' đến
năm Chúa Giáng Sinh được gọi là 'Thời Kỳ
Cựu Ước' và từ năm Chúa Giáng Sinh trở về
sau được gọi là 'Thời Kỳ Tân Ước'.
Theo lịch chung chúng ta dùng hiện nay thì trước thời
Chúa Giáng Sinh gọi là trước 'Công Nguyên' (thường
ký hiệu là B.C. 'Before the birth of Christ') và từ năm
Chúa Giáng Sinh cho đến ngày 'tận thế' thì gọi là
sau 'Công Nguyên' (thường ký hiệu là A.D. 'Anno Domini'
'Năm của Thiên Chúa').
Như vậy,
thí dụ ngày 25 tháng 12 năm 2008 là ngày chúng ta mừng
Sinh Nhật thứ 2008 của Chúa Giêsu Kitô. Tuy nhiên vì các nhà
làm lịch lúc đầu tính lầm nên năm Chúa Giêsu giáng
sinh bị lệch đi mất 6 hoặc
7 năm. Nếu tính đúng thì năm 2008 sẽ
phải là năm 2014 (hoặc 2015). Nói một cách khác
đơn giản hơn thì vào năm 2008 này tuổi của
Chúa Giêsu đã là 2014 (hoặc 2015).
Lý do của việc
'tính lầm' nầy là vì vào thời xưa người ta
chưa có lịch chung như ngày nay, nên thường tính
năm theo triều đại của các vua (như 'Đời
Vua Hùng Vương thứ 18'... chẳng hạn) hoặc
theo một biến cố lịch sử nào đó ( như năm Tần Thủy Hoàng ra lệnh
xây 'Vạn Lý Trường Thành' chẳng hạn). Các Thánh Sử khi viết sách 'Phúc Âm' (hay 'Tin Mừng')
cũng dùng niên hiệu các vua cùng với những biến cố
lịch sử nào đó. Thí dụ: Thánh Matthêu viết:
'Khi Chúa Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđêa, thời
vua Hêrôđê trị vì... ( Matthêu 2:1... ).
Thánh Luca viết: ' Vào thời Hoàng Đế Augustô ra 'chiếu
chỉ kiểm tra dân số'... Khi Giuse và Maria đang ở
Bêlem, thì Maria đến ngày sinh con... ( Luca
2:1... )
Khi
Chúa Giáng Sinh thì nước "Do Thái" (vùng Palestina)
đang dưới quyền 'đô hộ' của Đế
Quốc Rôma. Lúc đó
Đế Quốc Rôma đang cai trị
nhiều vùng rộng lớn, bao gồm cả vùng Trung
Đông. Hoàng Đế Rôma bấy giờ là
Augustô. Còn vua Hêrôđê chỉ là một 'tiểu
vương' thay mặt hoàng đế Rôma cai
trị miền Giuđêa (phiá nam Palestina) và nhà vua không phải
là người Do Thái. Vùng đất Palestina (nơi người
Do Thái sinh sống thời đó) gồm ba miền: Galilê (Bắc),
Samaria (Trung) và Giuđêa (Nam). Thành Bêlem nơi Chúa Giáng
Sinh và thủ đô Giêrusalem nằm phiá nam, thuộc
Giuđêa. Vua Hêrôđê này thường được gọi
là vua ' Hêrôđê Cả' (Herod the Great) để phân biệt
với Hêrôđê 'Antipa' là con. Vua ' Hêrôđê Cả' là người
đã tiếp kiến các nhà đạo sĩ phương
đông đến triều yết để hỏi
đường đến chiêm bái Vị Vua Mới Sinh (Matthêu 2:1...). Cũng nhà vua nầy đã
ra lệnh 'giết các hài nhi mới sinh từ hai tuổi trở
xuống...' (Matthêu 2:16...). Vì thế Thánh Giuse phải
đưa 'Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập
(Matthêu 2, 13...). Theo các sử gia thì nhà vua này chết vào
năm 4 trước Công Nguyên, tức là sau khi Chúa Giêsu sinh
ra chừng 3 hay 4 năm (vì Chúa Giêsu sinh ra vào năm 6 hay 7
trước Công Nguyên, do nhà làm lịch tính lầm năm,
như đã nói trên). Khi Thánh Giuse nghe tin nhà vua đã chết,
liền đem Đức Maria và Chúa Hài Nhi trở lại
quê hương (Matthêu 2,19...) (Như vậy
là Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Hài Nhi Giêsu cũng đã phải
trải qua một thời 'di cư' sống nơi 'đất
khách, quê người' như nhiều người Việt
Nam chúng ta hiện nay!).
Hêrôđê
Antipa (Con của Hêrôđê Cả) là người đã ra lệnh
xử trảm Thánh Gioan Tiền Hô (PÂ Matthêu 14:4). Nhà vua này cũng là người đã ''Rất
mừng rỡ khi gặp mặt Chúa Giêsu...'' (PÂ Luca 23:6...) khi Người bị bắt và đang bị
xử án.
Nếu tính theo triều đại Hoàng Đế Rôma
Augustô, thì Chúa Giêsu sinh ra vào 'đời Hoàng Đế Augustô
thứ 20'.
Thực ra
người chủ trương lấy năm Chúa Giêsu sinh
ra là năm I để bắt đầu Công Nguyên là ông
Diônisiô (khoảng năm 556) đã tính lầm năm sinh của
Chúa, vì ông căn cứ vào năm xây dựng thành Rôma và tính
là Chúa giáng sinh vào cuối năm 753 sang năm 754 (sau khi thành
lập thành Rôma) , rồi ông lấy
năm 754 là năm I cuả Công Nguyên. Nhưng sau này các
sử gia và các học giả Kinh Thánh nghiên cứu lại
các thời đại Hoàng Đế Augustô và vua Hêrôđê Cả
mới thấy là Chúa Giêsu phải sinh ra sớm hơn; vì thế,
Chúa Giêsu bị ghi hụt đi mất 6, 7 tuổi và
cũng vì thế mừng sinh nhật cúa Chúa năm 2008 chính
ra đã là năm 2014 (hay 2015).
Tóm
lại, năm Chúa Giêsu Kitô Giáng Sinh.
+Cách thời của
Abraham: 21 thế kỷ;
+Cách Maisen với
công cuộc xuất hành khỏi Ai Cập: 13 thế kỷ;
+Cách thời
bà Ruth và các thẩm phán: 11 thế kỷ;
+Cách thời
vua David được xức dầu phong vương: một
ngàn năm;
+Cách năm
đại hội Olympics đầu tiên: 776 năm (Đại
Hội thứ 194);
+Khoảng 747
năm sau khi thành lập Thành Rôma.
(Qúy vị có
thể xem thêm tài liệu trong các sách chú-giải về Kinh
Thánh hoặc đọc phần Dẫn Nhập vào Kinh Thánh
Tân Ước trong các bản dịch Kinh Thánh của Linh Mục
Nguyễn Thế Thuấn; hoặc của Nhóm Phiên Dịch
Các Giờ Kinh Phụng Vụ; hoặc trong The New American
Bible; hoặc trong Bible de Jerusalem).
Chúa Giêsu sinh ra ngày nào?
Đọc tiểu
sử của các 'vĩ nhân' trên thế giới thời
xưa, chúng ta thường không thấy nói đến ngày
sinh; chẳng hạn Socrate (khoảng 470-399 BC) hay Platon (khoảng
428-348 BC) v.v... Ngay các cụ người Việt
Nam chúng ta bây giờ, nhiều
vị cũng không nhớ 'ngày sinh, tháng đẻ' của
mình; nhiều cụ chỉ nhớ là tuổi'Mùi' hay tuổi
'Thìn'. Ngay cả ngày tháng
năm sinh của các cụ trên giấy khai sinh cũng không
đúng hẳn... Ngày sinh của Chúa Giêsu cũng không
được ghi lại đầy đủ trong các sách
Phúc Âm (Tất nhiên Chúa Giêsu cũng không có giấy khai sinh hay
sổ bộ khai sinh...)
Nhưng
tại sao lại mừng ngày Chúa Giêsu ra đời vào 25
tháng 12 hằng năm?
Thực
ra, trong ba thế kỷ đầu (các Kitô hửu chỉ họp
nhau để kỷ niệm việc Chúa Giêsu đã chịu
đau khổ, đã chịu chết và đã sống lại. Đặc biệt tụ họp vào ngày
thứ nhất trong tuần (Ngày Chúa Giêsu sống lại từ
cỏi chết, Gioan 20,1...) và gọi ngày
này là 'Chúa Nhật'. Việc cử hành phụng vụ này gọi
là 'Nghi Lễ Bẻ Bánh' (ý nói đến việc cử hành
nghi lễ 'Thánh Thể') (Tông Đồ Công Vụ đoạn
2, câu 42...). Trong những cuộc 'họp mặt' này, các Kitô
hữu cùng gặp gỡ nhau, chia sẽ tình thân hữu và niềm
tin, rồi cùng nhau cầu nguyện và dự 'Lễ Thánh Thể'
(Nghi Thức Bẻ Bánh). Lúc đầu chưa có các 'Thánh
Đường', nên thường tùy tiện họp mặt
tại các tư gia hay nơi nào có thể được,
như tại 'hành lang Salomon' (TĐCV 5:12...). Tuy nhiên việc 'Cử
Hành' này cũng không được đều đặn,
vì ngay từ lúc đầu các Kitô đã bị bách hại và
xua đuổi. Đọc sách 'Tông Đồ Công Vụ'
(The Acts of Apostles), ta thấy rõ điều này: trong khi các
tông đồ và các tín hữu ra sức rao giảng 'Tin Mừng
tình thương' của Chúa cho mọi người ở mọi
nơi họ sống, thì họ cũng luôn bị những
thế lực thù nghịch chống đối và bách hại;
vì 'bóng tối' luôn thù nghịch 'Ánh Sáng'. Những người
sống theo 'thế gian' thì thù ghét những
ai sống ngược lại với lối sống của
họ! Tất nhiên 'Thầy'của mình là Chúa Giêsu Kitô đã
bị thù ghét, bị bắt, bị hành hạ và bị giết
nhục nhã trên thánh giá, thì các môn đệ của ' Thầy'qua
các thế hệ đều cũng bị bách hại cách
này hay cách khác. Trong ba thế kỷ đầu thì các cuộc
bách hại rất dữ dội ngay tại nơi đất
nước quê hương của Chúa Giêsu và các tông đồ,
và sau đó là ở khắp các nơi trong toàn Đế Quốc
Rôma. Hơn nữa, lúc đó chưa có các tổ chức 'Bảo
Vệ Nhân Quyền' hay 'Bảo Vệ Tự Do Tôn Giáo', nên
các nhà cầm quyền tự do đàn áp và tàn sát các tín hửu
và các vị lãnh đạo tôn giáo của họ, bất kể
ở các chức vụ nào. Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng đầu
tiên, Thánh Phaolô và các Thánh Tông Đồ đều tử
đạo, trừ Thánh Gioan thì bị lưu đày cho đến
chết. Các vị Giáo Hoàng tiếp theo
cũng như các thành phần trong Giáo Hội đều bị
xua đuổi, bị bắt, bị tù đày và bị giết
thảm khốc (nhất là dưới thời Hoàng Đế
Nêron).
Trong hoàn cảnh
cực khổ đó, các vị lãnh đạo và các tín hữu
tiếp tục giữ vững đức tin và tiếp tục
rao giảng Tin Mừng và họp mặt cầu nguyện và
cử hành nghi lễ 'Thánh Thể' bất cứ lúc nào và
nơi nào có thể được để an ủi và
nâng đỡ lẩn nhau trong cuộc sống đức
tin đầy khó khăn như thế. (Xin xem
thêm về chuyện các 'Hang Toại Đạo' 'Catacombs' tại
Rôma ngày xưa). Cho mãi đến năm 313, khi một
Hoàng Đế Rôma có tên là Constantinô Đại Đế
(Constantine 'The Great', 280-337, theo đạo Công Giáo , Mẹ là
Thánh Helene) ký hiệp ước Milan (Edit de Milan) để
bảo đảm quyền tự do tôn giáo, lúc đó Giáo Hội
mới được hưởng một thời kỳ
an-bình (Paix de L'Eglise) và lúc đó, các Kitô hửu mới
được hưởng chút tự do để thờ
phượng Chúa và các Thánh Đường được
xây cất, các buổi 'họp mặt' cầu nguyện, học
hỏi Thánh Kinh và cử hành 'Lễ Thánh Thể mới
được thường xuyên hơn. Tuy
nhiên đến năm 336 mới thấy việc cử hành
ngày Chúa Giáng Sinh (Christmas Day) xuất hiện trong lịch phụng
vụ của Giáo Hội. Việc mừng Lễ Giáng
Sinh của Chúa Giêsu chắc là trùng hợp với việc
các Kitô hữu, khi đã được hưởng thời
gian an bình để sống đạo, liền nghĩ
đến việc hướng về quê hương của
Chúa, nhất là nơi Chúa Giáng Sinh là thành Bêlem và hành
hương kính viếng và chung tay xây cất Đền Thờ
Chúa giáng sinh tại Bêlem vào năm 330.
Vì ngày Chúa Giáng
Sinh không được ghi rõ ràng trong các văn kiện lịch
sử cũng như trong các sách Phúc Âm, nên Giáo Hội đã
chọn một ngày thích hợp là 25 tháng 12 là ngày gần với
ngày đông chí (winter solstice), ngày ngắn nhất đã qua và
ánh sáng lại trở lại... và vì thế các dân tộc
Trung Đông thời cổ hay mừng 'ngày ánh sáng' vào 25 tháng
12; rồi Giáo Hội muốn thánh hóa ngày này bằng việc
kính nhớ ngày Thiên Chúa Giáng Sinh 'Trời Đất Giao Hoà'.
Như vậy ngày 25 tháng 12 không phải là ngày có tính cách lịch
sử mà chỉ là ngày kỷ niệm mừng Chúa xuống
trần để giao hoà với nhân loại và loan báo tin mừng
cứu độ (xin xem thêm 'Preaching the Lectionary' của R.
H. Fuller). Đây chỉ là một việc làm theo 'thuận tiện',
tạm ví như nhiều cụ khi ở Việt Nam thì không
có thói quen mừng ngày sinh nhật (birthday) (tất cả chỉ
mừng vào dịp Tết); nhưng đến Hoa Kỳ, giới
trẻ thích sống theo văn hóa địa phương,
đã có thói quen mừng'sinh nhật', và cũng muốn các bậc
cha mẹ có một ngày để mừng cho con cháu vui vẻ
trong gia đình. Các cụ nào không nhớ
được ngày sinh nhật chính thức của mình,
đã chọn một ngày nào đó; chẳng hạn có cụ
chỉ nghe cha mẹ nói là mình sinh vào dịp tháng tám mưa
bão, liền chọn một ngày trong tháng 8. Có cụ chỉ nhớ cha mẹ nói là sinh vào giữa
mùa gặt (ở ngoài bắc thì vào tháng 5) nên chọn một
ngày vào tháng 5. Kể cả việc ngày giỗ của
một số vị trong gia đình cũng không thể
đúng ngày; nhiều gia đình có chồng con mất tích
trong cuộc chiến, khi biết chắc là đã chết,
liền chọn một ngày để kính nhớ (thường
hay chọn vào ngày nghe tin mất tích...) Ông cụ trong gia
đình chúng tôi, ngày xưa hoạt động cho Quốc
Dân Đảng, khi Việt Minh nổi lên, họ mời
đi họp để 'cộng tác làm việc cứu quốc'
và từ ngày đó là biệt tích luôn. Sau đó gia đình biết
chắc đã chết, nhưng không biết chết làm sao
và vào ngày nào, nên đã chọn ngày 'rời gia đình' để
con cháu 'khói hương' kính nhớ.
Vì ngày mừng
lễ Giáng Sinh vào 25 tháng 12 hàng năm không xác thực theo lịch
sử, nên thường có những ý kiến chống đối;
đặc biệt vào thế kỷ 17 tại Anh Quốc,
những người 'Thanh Giáo' (Puritans) đã nổ lực
để yêu cầu xóa bỏ việc mừng lễ Giáng
Sinh của Chúa Giêsu; nhưng mọi nổ lực đều
thất bại, và việc mừng Chúa Giáng Sinh vào 25 tháng 12
hàng năm vẫn tiếp tục ở Anh Quốc cũng
như khắp nơi trên thế giới. Hơn nửa, việc
mừng lễ Giáng Sinh của Chúa không phải chỉ đơn
thuần mừng ngày 'Sinh Nhật' của Chúa, mà còn có ý nghiã
thiêng liêng chuẩn bị tâm hồn đón Chúa vào tâm hồn
tín hữu, và ngày Chúa trở lại trần
gian lần thứ hai trong ngày thẩm phán. Vì
thế có gần một tháng để tín hữu chuẩn
bị lễ Giáng Sinh, gọi là 'Mùa Vọng' (ngày xưa gọi
là 'Mùa Áp') (Advent). Mùa Vọng là mùa Giáng Sinh khởi
đầu niên lịch phụng vụ của Giáo Hội,
tiếp theo là 'Mùa Thường Niên I', rồi đến
'Mùa Chay' (Lent) để chuẩn bị Đại Lễ Phục
Sinh và Mùa Phục Sinh, rồi đến 'Mùa Thường
Niên II' kéo dài đến 'Mùa Vọng' cho một niên lịch
phụng vụ mới.
Nơi đây
chúng tôi cũng xin nói thêm là trước lễ Giáng Sinh 9
tháng, Giáo Hội có một ngày mừng lễ đặc biệt
gọi là 'Lễ Truyền Tin' (Annunciation) để kỷ
niệm giờ phút sứ thần Thiên Chúa báo tin cho Đức
Maria biết Thiên Chúa đã chọn Ngài làm người
được diểm phúc cưu mang và sinh Đấng Cứu
Thế... Và Đức Maria đã 'Xin Vâng' (Luca 1, 26...).
Đây chính là giờ phút rất quan trọng trong lịch sử
ơn cứu độ, giờ phút 'Trời Đất Giao
Hoà', 'Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta (Gioan 1,14). Chính vì thế
mà trong toàn Giáo Hội có thói quen nguyện 'Kinh Truyền Tin'
vào ba lúc quan trọng trong một ngày: sáng, trưa, chiều.
Khi nghe tiếng 'Chuông Nguyện' mọi tín hữu đều
ngưng các công việc để nguyện 'Kinh Truyền
Tin' mà nhớ đến giây phút quan trọng này: 'Và Ngôi Lời
đã nhập thể trong lòng Đức Trinh Nữ Maria.' Rất
nhiều nhạc sĩ, thi sĩ Công Giáo các nơi đã sáng
tác các bài thánh ca hoặc các bài thơ diễn tả giây phút
'huyền nhiệm'nầy; đan cử như bài thơ của
thi sĩ Hàn Mạc Tử, bài 'Theo Tiếng Thiên Thần
xưa Kính Chào' của Hoàng Diệp, 'L'Annonce faite à
Marie'' của Paul Claudel (văn hào Pháp).
Ngày nay lễ
Giáng Sinh (có nơi gọi là lễ 'No-en' 'Noel') càng ngày càng
lan rộng đi khắp nơi, đến cả các dân tộc
ở các vùng hẻo lánh, và ngay cả các nước còn
đang dưới chế độ 'Cộng Sản'
như Cuba, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn cũng không
thể ngăn cản dân chúng rầm rộ mừng lễ
No-en. Đáng tiếc là ngày nay người ta
đã 'thương mại hóa' dịp lễ này mà làm giảm
đi phần nào ý nghĩa thiêng cao cả. Tuy nhiên
điều 'lạm dụng' đó cũng không thể làm giảm
đi tinh thần mừng lễ đích thực trong lòng những
người thành tâm thiện chí (Abusus non Tullit Usum) và họ
được hưởng 'ơn phúc lộc' an bình trong tâm hồn và trong gia đình họ,
như lời các Thiên Thần hát mừng trong đêm Chúa
Giáng Sinh:
'Vinh Danh Thiên Chúa trên Trời,
Bình an
dưới thế cho người thiện tâm!'
Kính chúc quí vị
được hưởng nhiều ơn phúc lộc của
Chúa trong dịp lễ Giáng sinh này, và những ơn phúc
đó sẽ tràn lan sang Năm Mới, đem đến bình
an thật của Chúa đến tâm hồn và gia đình
mỗi người, cũng như cho toàn thể thế giới
và trên quê hương Việt Nam chúng ta.
_____________________
|