MẸ HIỆN ĐẾN MEDJUGORJE, # 9
NGUYÊN TÁC: THE APPARITIONS OF OUR LADY AT MEDJUGORJE. (CÁC CUỘC PHỎNG VẤN LỊCH SỬ.)
Tái bản lần thứ ba, Bản tiếng Anh. Tác giả: LM Svetozar Kraljevic O.F.M.
Dịch Phẩm Thứ 30 của Kim Hà Nhà Xuất Bản GIỜ CỦA MẸ. Ấn Hành Lẩn Thứ Nhất tại Hoa Kỳ (Tiếp Theo)
PHẦN THỨ HAI: PHÁT TRIỂN:
CHƯƠNG THỨ 9:
CÁC CUỘC HIỆN RA TẠI NHÀ THỜ, NHÀ XỨ, CÁNH ĐỒNG VÀ CÁC NGÔI NHÀ.
Sau ngày thứ tám, Đức Trinh Nữ hiện ra nhiều lần trong nhà xứ của nhà thờ giáo xứ Medjugorje. Tuy nhiên, các nơi chốn và ngày giờ hiện ra đều bất thường, dù cho cuộc hiện ra tiếp tục hàng ngày. Sau ngày 3 tháng 7, chúng tôi không được biết những lời nói chuyện cụ thể của mỗi cuộc hiện ra.
Bởi vì luôn có những đám người đông đảo nên nơi Mẹ hiện đến được xẩy ra tại triền đồi, nơi mà Đức Mẹ Maria tiếp tục hiện ra mỗi ngày, cho đến ngày 12 tháng 8 năm 1981, khi mà chính quyền tuyên bố giới hạn số những người lên đồi.Vì thế, các thị nhân nhận được thị kiến ở làng Bijakovici, trong vùng núi rừng hay các cánh đồng. Có nhiều khi, nơi Mẹ Maria hiện ra lại là nhà của một trong số các thị nhân, nơi mà mọi người tụ tập để cầu nguyện và đợi chờ Mẹ đến.
Cùng với Đức Mẹ, các thị nhân thành lập một nhóm cầu nguyện. Rồi Mẹ dậy dỗ các em, hát và cầu nguyện chung với các em. Linh mục Janko Bubalo là người theo dõi các biến cố này một cách cẩn thận, cha bảo tôi:
“Đa số các thông điệp được Đức Mẹ Maria ban cho mọi người thường từ các cánh đồng.”
Hình ảnh làm tôi rung động là sự việc Đức Mẹ Maria và các con yêu dấu của Mẹ cảm thấy thoải mái nơi các cánh đồng. Dù vậy, ai cũng cảm động khi nghĩ đến hình ảnh Đức Trinh Nữ chọn một nơi khô cằn trên trái đất để hiện ra, đó là một triền đồi bị bỏ quên!
1. Các cuộc hiện ra trong nhà thờ của giáo xứ:
Vì lý do mục vụ, vì thái độ của các giáo dân, và vì sự phát triển, các trẻ thị nhân được yêu cầu để xin Đức Mẹ Maria ban cho họ được thị kiến Mẹ trong nhà thờ. Mặc dù các thị kiến ấy tiếp tục trong nhà thờ, nhưng có lần trong suốt 5 ngày, Mẹ không hiện ra nữa. Điều này làm cho các thị nhân buồn bã vô cùng. Như thế, chứng tỏ rằng các thị nhân hay bất cứ ai không có quyền năng đặt điều kiện cho các cuộc hiện ra. Mỗi ngày, không ai biết là có cuộc hiện ra hay không. Các thị nhân cũng không biết trước rằng Đức Mẹ Maria sẽ hiện ra hay không hiện ra. Đó là do ý Chúa chọn ngày giờ cho các cuộc hiện ra.
2. Phụng vụ vào buổi chiều tối:
Những ai hiện diện từ lúc đầu tiên của cuộc hiện ra đều nhận thấy rằng suốt ngày và đêm, người ta vào nhà thờ để cầu nguyện. Tuy nhiên, đám đông cùng vào nhà thờ vào buổi chiều tối, với Thánh lễ ban chiều, bắt đầu từ lúc 6 giờ chiều. Có rất nhiều người đến nhà thờ vào lúc 5 giờ chiều hay sớm hơn nữa để cầu nguyện. Có một số linh mục luôn túc trực, nếu ngày ấy đặc biệt hay là có nhiều khách hành hương. Trước và trong Thánh lễ, đa số các linh mục ngồi tòa giải tội. Việc giải tội làm cho các khách hành hương cảm thấy một nhu cầu cần thiết để làm hoà với Chúa. Một người hành hương nói:
“Với bí tích giải tội thì làm cho vương quốc của ma quỷ bị thiệt hại biết là chừng nào.”
3. Chuỗi Mân Côi:
Nghi thức phụng vụ bắt đầu với việc đọc kinh bằng Chuỗi Mân Côi, thường là do một trong số các linh mục hướng dẫn. Đây là một thời gian đặc biệt: người ta hòa nhập thành một trái tim và một giọng đọc, với sự hiện diện thánh thiêng của Thiên Chúa. Con số những người tham dự mỗi buổi chiều thật là phấn khởi. Nhà thờ chỉ có ghế ngồi cho 600 người, nhưng tôi không bao giờ thấy ghế trống, có nhiều khi con số người tham dự lên đến 20 ngàn người trong Thánh lễ buổi chiều.
4. Các cuộc hiện ra:
Khi thấy các thị nhân và những người đến xin ơn lành trong lúc Mẹ hiện ra thì tôi tin rằng họ đại diện cho toàn thế giới. Mỗi người đem đến đây tất cả nỗi niềm đau đớn và thống khổ để dâng lên Đức Mẹ Maria. Tuy nhiên, thế giới không muốn dâng mình cho Mẹ, mặc dù đó là ước nguyện của các trẻ thị nhân và những người đến xin ơn.
Căn phòng mà Đức Mẹ Maria hiện ra với các thị nhân thì rất nhỏ, khoảng 17 bộ Anh(feet) bề dài và 15 bộ Anh bề ngang. Căn phòng này không thể nào là nơi biểu diễn được. Sau khi được vào phòng thì các giáo dân đem các tràng hạt Mân Côi, ảnh vẩy, và các vật thánh khác để xin Đức Mẹ Maria làm phép. Còn các em thị nhân thì đứng trước một cái bàn.
Bởi vì lời cầu nguyện là một cách mà chúng ta đối thoại với Thiên Chúa và Đức Mẹ Maria, nên buổi hiện ra được bắt đầu với lời cầu nguyện. Người ta đọc 7 Kinh Lạy Cha, 7 Kinh Kính Mừng và 7 Kinh Sáng Danh. Các thị nhân bắt đầu đọc các kinh này trước khi có dấu hiệu chứng tỏ Đức Mẹ Maria sẽ hiện ra. Thế rồi, khi họ đọc đến Kinh Lạy Cha thứ hai hay thứ ba thì các em quỳ rập xuống. (Có người so sánh việc các thị nhân cùng quỳ rập xuống một lần giống như họ bị điện giật.)
Điều này xẩy đến vào giây phút mà Đức Mẹ Maria hiện ra. Khuôn mặt của các em và đôi mắt của họ cùng hướng về một phía, nơi ấy cách các em chừng 8 bộ Anh, gần cây thánh giá.
Theo chứng từ của các thị nhân thì trước khi Đức Mẹ Maria xuất hiện, các em thấy một luồng ánh sáng, và Mẹ đến trong luồng ánh sáng ấy. Các thị nhân cho biết rằng vào giây phút đó, mọi liên lạc với thế giới vật chất bị ngừng lại khi các em có thị kiến. Nhiều người đã quan sát kỹ khi các em có thị kiến. Các em không biết gì đến ánh sáng chói lòa của máy truyền hình hay máy chụp hình, dù cho người khác có chụp hình trước mặt họ hay chung quanh họ. Những ai hiện diện trong các buổi hiện ra đều không thể nghe những điều mà Đức Mẹ Maria và các em nói với nhau, dù cho người ngoài có thể nhìn miệng các thị nhân ấy chuyển động khi họ nói. Họ có thể nhìn đôi mắt của các em bừng sáng và tươi vui, ngay cả trước đó, các em buồn bã hay đau đớn vì bệnh tật.
Theo lời chứng của các thị nhân thì các em cùng cầu nguyện với Đức Mẹ Maria. Họ cũng lắng nghe lời Mẹ nói với họ. Họ đặt câu hỏi và hát với Mẹ. Rồi Mẹ nói chuyện với các em, trả lời các câu hỏi và ban cho các em những lời khuyên. Các thị nhân kể rằng cảm nghĩ và lời nói của Đức Mẹ luôn được diễn tả trên khuôn mặt Mẹ. Sau khi một thị kiến bắt đầu, theo lời kể của các em, thì Đức Trinh Nữ hướng dẫn các em cùng cầu nguyện. Và với Mẹ Maria, các em cầu nguyện Kinh Sáng Danh.
Có những lần thì hoàn toàn thinh lặng, chỉ có đôi môi của các em cử động khi họ nói với Đức Mẹ Maria. Thỉnh thoảng, sự thinh lặng chấm dứt và một em kêu lên:
”Mẹ đã biến đi rồi!”
Các em làm chứng rằng đôi khi họ thấy một cây thánh giá hay một trái tim, và các em reo lên:
“Ồ, có cây thánh giá!”
Hay “Ồ, có trái tim!”
Ngay sau các cuộc hiện ra, các em viết ra những thông điệp, hay nói những gì mà các em nhận được từ Đức Mẹ, có khi Mẹ nói về họ, hay về những người đến xin ơn lành. Nếu có những gì đặc biệt để nói thì các em truyền đạt với người ta, đặc biệt là với các bịnh nhân. Các cuộc hiện ra thường kéo dài từ 2 đến 15 phút, nhưng cũng có khi kéo dài 45 phút.
Tái bút: Đây là sự mô tả cuộc hiện ra vào năm 1982. Bây giờ thì các cuộc hiện đến xẩy ra ở nhà riêng của các thị nhân.
5. Những số lần hiện ra:
Kể từ lần hiện ra đầu tiên vào ngày 24 tháng 6 năm 1981, trừ vài biệt lệ, thì Đức Mẹ Maria hiện ra với các thị nhân hàng ngày. Có một số người cảm thấy khó chấp nhận, chẳng hạn như có một vị Giám Mục hỏi tôi:
“Có thể nào mà Đức Mẹ Maria hiện ra mỗi ngày, trong một thời gian dài như thế không? Việc này chưa từng xẩy ra từ trước đến giờ.”
Có lẽ câu trả lời đúng là trạng huống của thời đại này khác thời đại trước. Thời kỳ này dường như đòi hỏi một biến cố mỗi ngày, các biến cố của ngày hôm qua dường như không còn ý nghĩa trong ngày hôm nay, và thực sự bị lãng quên ngay.
Tuy nhiên, các biến cố ở Medjugorje chứng tỏ rằng các phép lạ vẫn xẩy ra. Đức Mẹ Maria biết rõ chúng ta và thời đại của chúng ta, và cách thức mà tâm trì của ta làm việc. Do đó, Mẹ hiện ra ngày này sang ngày kia. Linh mục Janko Bubalo nói với tôi rằng:
“Tôi chắc rằng Mẹ sẽ bị lãng quên ngay nếu Mẹ hiện ra ở Medjugorje chỉ có một số lần như ở Fatima.”
Khi các em thị nhân được dặn hãy hỏi Đức Mẹ Maria rằng:
”Thưa Mẹ, Mẹ sẽ hiện ra với chúng con bao lâu?”
Thì Đức Mẹ đáp:
”Bộ Mẹ làm cho các con chán rồi à?”
Vào ngày hiện ra thứ sáu, các em hỏi Mẹ:
”Thưa Mẹ, Mẹ sẽ hiện ra với chúng con trong bao nhiêu ngày?”
Mẹ đáp:
“Mẹ sẽ hiện ra bao lâu mà các con mong muốn.”
6.Thánh lễ buổi chiều:
Bởi vì có những đám đông tụ tập trên các sườn đồi vào mỗi buổi chiều để cầu nguyện và chờ đợi Đức Mẹ Maria, nên những buổi gặp gỡ phải được chuyển về nhà thờ và bàn thánh. Trước đó, Đức Mẹ xin có Thánh lễ mỗi ngày, vào giờ có cuộc hiện ra của Mẹ. Tuy nhiên, cha chính xứ bị áp lực nên không tổ chức Thánh lễ vào buổi chiều. Khi ngài nhờ các em xin lời khuyên của Đức Mẹ thì Mẹ trả lời:
“Cứ tiếp tục cử hành Thánh lễ.”
Các thị nhân không có một vai trò đặc biệt nào trong các Thánh lễ. Thánh lễ bắt đầu vào lúc 6 giờ chiều. Đôi khi, thị nhân Jakov giúp lễ như các trẻ khác, nhưng các thị nhân thường dự lễ trong căn phòng mà Đức Mẹ hay hiện ra. Họ hát với ca đoàn và mọi người.
Vào ngày 19 tháng 12 năm 1981, Đức Giám Mục Frane Frenic, Tổng Giám Mục giáo phận Split, nước Croatia đến viếng Medjugorje mà không cho ai biết. Khi trở về, ngài viết một bản báo cáo cho tờ báo chính thức của địa phận ngài, với lời lẽ như sau:
“Khi tôi bước vào nhà thờ thì trời đã tối. Nơi ấy, người ta chen chúc nhau ngồi. Bên ngoài có những xe hơi mang bảng số của các thành phố khác nhau: Từ Drubronik đến Mostar, từ Sarajevo đến Split. Thật là một đám người đông đảo quá sức. Có rất nhiều người trẻ ở trong nhà thờ. Một linh mục Dòng Phanxicô đang dâng Thánh lễ. Ngài giảng về đức tin và lòng tín thác. Ngài nói về các phép lạ và ý nghĩa của chúng.
Điều hiển nhiên là vị linh mục tin vào các phép lạ; do đó, ngài không bị ảnh hưởng bỡi những thần học hiện đại. Điều rõ ràng nữa là ngài tìn vào những gì xẩy ra tại Medjugorje. Mọi người đều lắng nghe ngài một cách chăm chú, kể cả một số rất đông các người trẻ, những em này đứng và quỳ.
Lời cầu nguyện trong Thánh lễ theo nghi thức La Tinh mới. Vị linh mục chủ tế đọc lời cầu nguyện Thánh Thể từ trong sách Lễ, chỉ trừ một từ ngữ, thay vì đọc”hiển trị” (reigns) thì ngài đọc “thống trị” (rules) trong câu “Ngài hằng sống và hiển trị muôn đời.”
Có một số những thay đổi giống và khác chút ít, nhưng không có gì quan trọng. Các linh mục cho giáo dân rước lễ. Các ngài mặc phẩm phục và dây stôla, và tôi đã rước Mình Thánh Chúa từ một trong các vị linh mục. Không ai có thể nhận ra tôi, kể cả linh mục hay giáo dân. Lý do vì tôi đã dùng khăn quàng che chiếc cổ trắng linh mục của tôi. Tôi trở về thành phố Split sau Thánh lễ và sau buổi cầu nguyện. Tôi rất hài lòng.”
Cảm tưởng của Đức Tổng Giám Mục về đời sống cầu nguyện trong giáo xứ thật là tích cực, nhưng phán quyết cuối về sự thật của cuộc hiện ra phải được giao cho các nhà chuyên môn, và sau hết là từ Giáo Hội.
Có lẽ bài thánh ca thông dụng và được mọi người ưa chuộng nhất là bài nhạc do linh mục Stanko Vasilj sáng tác để vinh danh “Đức Mẹ Medjugorje”. Lời nhạc và âm điệu đơn sơ nhưng diễn tả được tình yêu của các con cái dành cho Đức Trinh Nữ Maria. Khi hát bài ca ấy lên thì người ta cảm nhận những giây phút đặc biệt. Ở Medjugorje, cả Cộng đoàn cùng hát nên nghe rất hay và như lời cầu nguyện sống động và đầy thần khí.
Sau Thánh lễ và bài hát kết lễ, các khách hành hương được các linh mục hướng dẫn cầu nguyện. Họ cầu nguyện bằng 7 Kinh Lạy Cha, 7 Kinh Kính Mừng, 7 Kinh Sáng Danh, và 1 Kinh Tin Kính. Sau đó, một trong các linh mục địa phương đọc các thông báo liên quan đến các cuộc hiện ra, thời khóa biểu của nhà thờ, và đặc biệt là những điều gì mới mẻ. Những thông báo này dành cho các khách hành hương mới đến Medjugorje lần đầu tiên.
7. Cầu nguyện cho bịnh nhân:
Các nghi thức phụng vụ chấm dứt với lời cầu nguyện dành cho bịnh nhân, rồi sau đó cả Cộng đoàn đọc kinh là một Chuỗi Mân Côi hay chầu Chúa Thánh Thể. Nhiều khách hành hương từ những nơi xa xôi ngàn dặm đã đến để xin Đức Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa cầu bầu cho họ và chữa lành bệnh tật của họ. Họ cũng xin Chúa chữa lành và an ủi họ. Thật sự, có rất nhiều người đã nhận được ơn chữa lành.
8. Các thị nhân :
Có điều gì khác biệt giữa năm 1981, khi các thị kiến bắt đầu ở Medjugorje và năm 1983, khi tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên và bây giờ không? Các thị nhân bảo rằng: Có và Không.
Nhiều năm tháng qua đi, vẫn những con người được gọi là thị nhân. Họ đều nói giống như lúc trước về những gì đã xẩy ra vào lúc 6:00 giờ chiều, ngày 24 tháng 6 năm 1981, trên đồi Podbrdo và những gì tiếp tục xẩy ra sau đó. Họ luôn trung tín với bản báo cáo đầu tiên về sự kiện họ được nhìn thấy Đức Mẹ Maria. Ngay trong ngày đầu, các thị nhân rất tự tin khi họ chia sẻ cảm nghiệm. Họ không thay đổi trong lời khai.
Tuy nhiên, đời sống của các thị nhân và thế giới chung quanh họ thay đổi rất nhiều. Tất cả 6 thị nhân đều đã lập gia đình và có cuộc sống hôn nhân bình thường. Ngay sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, thì có một cuộc nội chiến tương tàn xẩy ra ở nước Croatia và Bosnia-Herzegovina. Người dân Croát thành lập một quốc gia riêng lần đầu tiên, kể từ khi họ bị mất quốc gia vào thế kỷ thứ 11. Đồng thời, người Công Giáo ở nước Bosnia-Herzegovina kinh qua một cuộc xuất hành bi thảm trong lịch sử của họ, và số người dân giảm đi một nửa, từ 900 ngàn chỉ còn có 450 ngàn người mà thôi.
Khi quan sát các thị nhân, ta có thể nhận thấy họ có 3 đức tính bất biến: 1. Luôn cố gắng làm việc và làm chứng cho Đức Mẹ Maria. Họ lao mình phục vụ mà không sợ hãi hay chiều theo dư luận, áp lực, kỳ vọng hay những điều kiện do loài người đặt ra. 2. Trong cách thức thoải mái và tự tin, các thị nhân độc lập và tự do khi làm việc. Một trong những người bạn của các thị nhân quan sát và nhận ra rằng họ có thể quyết định trái ngược với kỳ vọng của khách hành hương, lcủa linh mục trong giáo xứ hay dân làng. 3. Tinh thần của các thị nhân trong những năm này là thực hiện lời kêu gọi tâm linh bắt nguồn từ trạng thái tinh thần của dân tộc họ. Người ta cảm thấy thích thú vì các thị nhân tỏ ra bình thường và có bản tính nhân loại. Khi Đức Mẹ Maria gọi họ là các con của Mẹ, thì Mẹ cho họ giữ tính nhân loại một cách lạ thường. Mẹ để cho họ bước đi một cách bình thường như một con người.
9. Bằng cách nào mà các thị nhân nhìn thấy Đức Mẹ Maria?
Các thị nhân cho biết rằng họ nhìn thấy Đức Mẹ Maria giống như chúng ta nhìn thấy một người ở ngoài đời, có nghĩa là theo ba bình diện:
Trước hết, họ thấy một luồng ánh sáng chói lòa, từ đó Đức Mẹ hiện ra. Tuy nhiên, khi các thị nhân chìm sâu vào trong thị kiến thì họ không thấy, hay không biết gì đến những sự vật ở chung quanh họ nữa. Họ không có phản ứng đối với bất cứ sự gì ở bên cạnh họ, chẳng hạn như cảnh người ta di chuyển, chụp hình ảnh hay đứng nhìn họ.
Các thị kiến kéo dài từ 2 phút đến 45 phút, nhưng thường thì cuộc hiện ra diễn ra từ 5 đến 10 phút. Cuối buổi hiện ra, Đức Mẹ Maria biến đi trong luồng ánh sáng mà Mẹ đã xuất hiện. Các thị nhân nhìn thấy hình ảnh và các dấu hiệu tượng trưng như: mặt trời, thánh giá, trái tim…
Khi linh mục Tomislav hỏi Vicka giải thích các hình ảnh ấy thì cô ta nói rằng:
“Đức Mẹ nói rằng thánh giá là dấu hiệu của sự cứu rỗi, mặt trời từ trên cao chiếu sáng trên chúng ta, và trái tim là dấu hiệu tình yêu Con của Mẹ là Chúa Giêsu.”
Nói khác đi thì mặt trời là đời sống, mặt trời chiếu sáng và làm cho chúng ta sống được. Thánh giá là dấu hiệu cứu độ. Trái tim là tình yêu của Chúa Giêsu Kitô.
Các em thị nhân nói rằng họ không có đủ từ ngữ để diễn tả vẻ đẹp của Đức Mẹ Maria. Khuôn mặt của Mẹ là khuôn mặt của một người, nhưng vẻ đẹp của Mẹ là vẻ đẹp của vị thánh. Nhan sắc của Mẹ, sự hài hòa giữa hình dáng Mẹ và y phục của Mẹ thì không ai có thể diễn tả hay so sánh được với những gì mà chúng ta thấy. Một trong các thị nhân nói:
“Tôi có thể nhìn Mẹ, nhìn nữa và nhìn mãi mãi.”
Các em nói rằng giọng nói của Mẹ rất êm ái, dịu dàng, giống như âm nhạc, và Mẹ nói tiếng Croatian rất hoàn hảo.
Trong các thị kiến, như chúng tôi đã trình bày, không ai có thể nghe tiếng nói của các thị nhân. Mọi người chỉ có thể thấy đôi môi của họ mấp máy và vẻ mặt họ linh động. Ai cũng đồng ý với nhận xét này. Một điều lạ là cách diễn tả trên khuôn mặt của họ đều giống y hệt nhau. Người quan sát biết rõ những gì mà các thị nhân nhận được thì rất rập khuôn: sự hiểu biết, tình cảm, và cảm nghiệm của từng người. Sự biểu lộ và chú ý của họ xẩy ra đồng loạt, điều này cho thấy rằng họ cùng có một kinh nghiệm như nhau.
10. Nội dung của các thông điệp:
Được nhìn thấy Đức Mẹ là một thông điệp, một món quà, một dấu ấn ghi đậm nét trong đời sống của một con người. Được nghe Mẹ nói, nhận được thông điệp của Mẹ, thì giống như là nghe chính Chúa Giêsu nói và nhận được thông điệp của Ngài. Tuy nhiên, các thông điệp này không có lối giảng dạy mới. Chúng ta nghe những gì mà chúng ta đã từng nghe đi, nghe lại trong quá khứ, trước khi có cuộc hiện ra lần đầu tiên. Chúa Giêsu đã dậy cho chúng ta mọi sự, và chúng ta có thể đọc trong sách Thánh Kinh.
Tuy nhiên trong một ý nghĩa nào đó, các thông điệp có vẻ mới, vì được chuyển tới chúng ta trong cách thức mới và đụng chạm đến thế giới hiện đại. Với Mẹ thì mọi sự luôn mới mẻ như thế. Tình yêu của Mẹ không bao giờ thay đổi. Tình yêu luôn luôn xưa và luôn luôn mới.
Đức Mẹ không trình bày Mẹ như một Đấng Cứu Thế, nhưng Mẹ đến như một nữ tỳ hay một người mang thông điệp của Đấng Cứu Thế, lan tỏa ra một tình yêu Mẫu Tử. Bởi vì các thông điệp của Mẹ đến từ Thiên Chúa nên lời này xác nhận ơn cứu độ của chúng ta và ơn cứu độ của toàn thế giới. Lời này xác nhận điều kiện hòa bình trên thế giới và cho sự hiện hữu của thế giới.
Các thông điệp rất đơn giản: hòa bình, hoán cải, đức tin, cầu nguyện, sám hối, và ăn chay. Các thông điệp nhằm ban cho toàn thế giới, và 6 thị nhân có trách nhiện đặc biệt để chuyển đạt tới toàn thế giới. (Các trẻ thị nhân đã nhận được các thông điệp cho cá nhân, đó là các thông điệp không có tính cách hoàn vũ.)
Khi tôi xin các thị nhân hỏi Đức Mẹ liệu Mẹ có thông điệp đặc biệt nào dành cho tôi không, hay nếu Thiên Chúa có chương trình gì đặc biệt dành cho tôi không, bởi vì lúc ấy, tôi ở trong một tình trạng đặc biệt, thì các thị nhân trả lời rằng:
‘Hãy cầu nguyện và làm thêm việc sám hối!” và “Khi Chúa gọi cha, cha nên đi!”
Tại nước Bosnia-Herzegovina, trong địa phận Mostar, thì trường hợp của Bosnia-Herzegovina được biết đến từ nhiều năm nay. Khi các thị nhân được hỏi để xin ý kiến của Đức Mẹ Maria thì họ trả lời: “Cần phải cầu nguyện và kiên nhẫn.” Nếu có ai hỏi họ là ta cần cầu nguyện các lời kinh nào thì câu trả lời của các em thị nhân là: ”Hãy cầu nguyện bằng những lời kinh quen thuộc, được Giáo Hội đặt ra, và hãy ăn chay và làm việc đền tội. Nếu ai không thể ăn chay được thì những người khác có thể ăn chay giúp cho họ.”
Các câu trả lời mà Đức Mẹ Maria ban qua các thị nhân thì luôn khôn ngoan, gây phấn khởi, tôn trọng mọi người và sự tự do của con người, luôn khéo léo và truyền đạt được tình yêu mẫu tử và sự quan tâm của Mẹ. Nội dung và ý nghĩa của các thông điệp không cho phép các thị nhân có thể thêu dệt được.
(Còn Tiếp)
|