www.xuanha.net
NHỮNG MẢNH XƯƠNG KHÔ TRONG SA MẠC, #10
(Lm. Bùi Đức Tiến)
Cảm nghiệm của một số quí vị dưới đây đã tìm thấy bình an, hạnh phúc trong Đạo Chúa.
TÔI ĐI TÌM CHÚA Mary Pan Wei.
Mary Pan Wei là phu nhân của Giáo Sư Paul Tsun Wei, Phân Khoa Trưởng Phân Khoa Thương Mại Viện Đại Học Quốc gia Cheng Chi, Đài Loan. Bài viết này đầu tiên xuất hiện trên Kỷ yếu của Học Viện Nữ Providence tại Tai Chung, Đài Loan. Bản Anh Ngữ được dịch do Eunice Shih, B.A.
Tôi sinh ra và lớn lên trong một gia đình Phật Giáo ngoan đạo. Qua nhiều thế hệ, bên ngoại tôi là một dòng tộc theo Phật giáo. Trong một môi trường như thế, mẹ tôi được giáo huấn để trở thành một Phật tử thuần thành. Bà được giáo dục kỹ càng để có một đời sống thân thiện, thật thà, kính trên, nhường dưới. Bà gìn giữ tất cả những qui tắc sống của người Phật tử một cách tốt lành và sống với tâm tình khiêm nhường, chịu đựng. Với một đời sống như thế bà được coi là một tu sĩ Phật giáo tu tại gia.
Gia đình tôi sống thành một đại gia đình, bốn thế hệ cùng sống trong một khu nhà. Ảnh hưởng giáo dục của mẹ tôi, tất cả, kể cả các cậu, các dì các anh em tôi đều có một niền tin xác tín nơi Đức Phật.
Vào những ngày chay tịnh, thường là trước những ngày lễ Phật, tất cả chúng tôi không kể già trẻ trai gái đều làm những việc đền tội và cầu kinh. Tôi còn nhớ, khi tôi mới bắt đầu biết nói, người cô thứ ba của tôi đã dạy tôi cầu nguyện: "Lạy Đức Phật, xin nhận lời con kêu cầu.". Khi lên mười ba hay mười bốn tuổi, anh tôi đã có thể đáp lại những lời kinh "Diamond Sutra".
Khi tới tuổi trung niên, mẹ tôi bắt đầu ăn chay trường. Những thời gian chay tịnh vào tháng hai, tháng sáu và tháng chín mỗi năm, chúng tôi hoàn toàn ăn trái cây hoặc ăn rau. Một nhà sư và một ni-cô đã chủ tọa một buổi lễ cho mẹ tôi khấn năm lời thề để tiến tới hơn trên con đường đạo giáo.
Năm 1923, mẹ tôi được nhận vào một nhà chùa tại Anch'ing. Khi hương được đốt phía trên đầu mẹ tôi, tôi và anh tôi quá xúc động đến nỗi chúng tôi đã cùng quì gối xuống cầu nguyện. Từ đó, chúng tôi ăn chay thường xuyên hơn. Vào những ngày lễ, chúng tôi đều đi chùa lễ Phật, không phải chỉ là để làm vừa lòng mẹ tôi, nhưng là để diễn tả đức tin của chính chúng tôi nữa.
Chúng tôi đọc kinh Phật để tìm hiểu về chân lý. Gia đình chúng tôi có một người thân: Giáo sư Hu Chia-tai dạy Triết học tại Viện Đại Học Wu-Han và Viện Đại Học Anch'ing, ông là một chuyên viên về Phật học. Chúng tôi thường bàn luận với ông về Phật pháp, về những ngành của Phật Giáo Trung quốc Ch'an Tsung, Mi Tsung và về những giáo thuyết giúp con người hiểu được chính mình bằng lý trí.
Thành phố Anch'ing nơi chúng tôi đang sống tọa lạc dọc theo bờ sông Wan-shui là một vùng cao nguyên với những đường phố lên xuống núi đồi. Nhà chúng tôi đang ở được xây trên sườn đồi, trên tầng lầu thứ hai là một nơi lộ thiên dành riêng thờ Phật, tượng Phật này hướng mặt đối diện với đền thờ Yingkiangku.
Trong thời gian thế chiến thứ hai, chúng tôi đang là sinh viên đại học, chúng tôi đã phải cùng theo trường đại học Wu han di chuyển từ Trung tâm Trung hoa sang Chiangting, Szechwan (Miền Tây Trung hoa). Chiangting gần ngọn núi Omi với rừng cây tuyệt đẹp, là nơi cư ngụ của các nhà sư. Chúng tôi thường đến thăm những ngôi chùa nổi tiếng và đền thờ Wu-Yu. Những thư viện tại đây đầy đủ sách vở về thuyết nhà Phật.
Khi quân đội Nhật bản tiến chiếm Anch'ing, mẹ tôi đã nhắn tin bảo chúng tôi hãy ở tại chỗ đừng lên đường về nhà. Mùa Thu năm 1938, tin tức từ nhà bị cắt đứt, chúng tôi không nhận được thư từ gì hết từ gia đình. Tôi sốt ruột lang thang từ phòng này sang phòng khác suốt đêm suốt ngày, không có được một giây phút yên tâm.
Mùa Xuân năm 1939, tôi nhận được hung tin từ gia đình do các người bạn chuyển đến về việc quân đội Nhật bản đã dã man tàn sát những người vô tội khi họ tiến chiếm thành phố: Anh tôi bị giết trong cuộc chiến. Bảy giờ đồng hồ sau đó chị dâu tôi tự tử chết theo anh. Mẹ tôi, góa bụa từ năm 38 tuổi sống với một người anh khác của tôi và là ngừơi con trai duy nhất của bà còn sống sót. Không biết mẹ tôi đã chịu đựng những thảm kịch đó như thế nào? Rồi mẹ tôi qua đời không lâu sau cơn đại nạn ấy. Không một người nào trong số những bà con thân thuộc còn sống sót có thể kể cho tôi nghe về cái chết của mẹ tôi.
Tôi tự hỏi tại sao những thảm nạn như thế lại có thể xảy ra cho gia đình tôi? Có ai phải chịu đựng những khốn khó như tôi đã phải chịu không? Mặc dù có thể chúng tôi đã không gieo những hạt giống tốt, nhưng sao lại bắt chúng tôi phải gặt hái những hoa trái đau đớn thế này?
Kết quả là sức khỏe của tôi kiệt quệ và niềm tin của tôi tan rã. Với một tình trạng sức khỏe như thế cộng với nỗi đau của quê hương dân tộc, tôi đâm ra thù hận những kẻ đã đến gieo tai họa cho tôi, cho đất nước tôi. Tôi thất vọng và trở thành người vô thần.
Sau khi chiến thắng quân thù vào năm 1945, dân chúng dần dần tái lập đời sống, nhưng trái tim tôi đã vỡ tan rồi. Tôi ước muốn trở về quê cũ Anch'ing, nhưng tôi không có đủ can đảm đối diện với thảm trạng đã xảy ra. Đời sống tôi được đồng hóa với bệnh hoạn và đau buồn.
Trên đường từ Chiangting về đến Anch'ing tôi phải bị đưa vào nhà thương tới ba lần. Cuối cùng mãi đến mùa Đông năm sau đó, 1946, tôi mới đến nơi.
Cảnh cũ đã hoàn toàn thay đổi. Toà nhà cũ đã sụp đổ, những người thân đã ra đi sang một thế giới khác, tôi còn lại một ngừơi chị họ già cả và một người họ hàng xa trẻ tuổi. Những người này, trải qua những biến cố kinh hoàng và phải chứng kiến những sự thật đau đớn đã không còn đủ trí nhớ để kể lại những chi tiết của thời gian qua.
Những cây cối sau vườn xơ xác. Đền thờ gia đình thờ Đức Phật, các ảnh tượng, chuông, trống, bình cắm hoa, tất cả đều đã bị tiêu hủy trong cuộc chiến. Nơi dành riêng để tĩnh tâm thống hối trước Phật tổ trở thành hoang tàn đổ nát. Làm sao tôi còn có được niềm tin khi mà tất cả đều không còn nữa?
Sau chiến tranh là đến thời kỳ cướp bóc xuất hiện. Mùa xuân năm 1947, các đảng cướp xuất hiện từ núi Tapeih, thuộc biên giới giữa tỉnh Hupeh và Anhui làm chủ tình hình. Tôi không dám đi thăm mộ cha mẹ tôi để đốt nén hương thảo hiếu.
Hoàn cảnh như thế, cộng thêm với trái tim tan nát trong một thân xác rã rời, đưa tôi đến một tình trạng khủng hoảng tâm lý và mất ngủ. Lợi dụng tình trạng hỗn loạn, Cộng sản vượt biên giới và tiến chiếm đất nước. Tôi lại phải một lần nữa từ giã nơi chôn nhau cắt rốn, từ Anch'ing tới Nanking, sau đó đến Thượng Hải, rồi Quảng châu cuối cùng là đến Đài Loan. Không một giây phút nào tôi tìm được an bình với một nơi cư ngụ thật sự.
Trong một tình trạng như thế, tôi không có thời gian để suy nghĩ về chính những bất hạnh của đời mình. Rã rời từ những chuyến đi dài như vô tận, tôi kiệt sức. Vì chứng mất ngủ, sức khoẻ của tôi không khá hơn. Bạn bè khuyên nhủ tôi nên tìm chốn nương tựa cho tâm hồn với một niềm tin vững chắc hầu tạo điều kiện cho một đời sống tự chủ hơn.
------------------------- Bà Chen Shihch'uan đang được Cha Kung giúp tìm hiểu về giáo lý đạo Công giáo, bà mời tôi đến gặp Cha Kung. Tôi không đi nổi nữa vì một bên chân phải của tôi đã bị liệt, bà Chen đã giúp tôi đến nơi lớp Giáo lý đang học.
Cha Kung đang nói về Thiên Chúa. Cha nói Thiên Chúa Ngài là Đấng Sáng tạo và là chủ tể của vũ trụ, của các Thiên thần, của con người và của tất cả. Ngài tạo dựng nên mọi sự và Ngài là nguyên ủy của mọi sự. Cha nói thêm rằng Thiên Chúa rất thương yêu con người, Ngài vui mừng tha thứ tất cả mọi lầm lỗi cho bất cứ ai biết khiêm nhường hối cải.
Tôi thật sự xúc động khi nghe những điều này, như một tấm màn vừa được vén lên để lộ tỏ một chân lý. Tôi thầm thĩ cầu nguyện.
Cha Kung cho tôi một cuốn sách về Giáo lý, tôi đọc cuốn sách này mỗi ngày trên giường bệnh. Mặc dù tôi không hiểu hết những điều trong đó, tôi vẫn mong muốn được biết về Chúa nhiều hơn.
Bà Chen rời Đài Loan đi Mỹ, gia đình tôi dọn về Peihu. Mấy tháng sau đó, một người bạn cũ thời còn đi học, giới thiệu tôi cho Cha Maurus Fang-hao. Chính Cha Maurus đã giúp tôi tìm hiểu về Giáo lý Đạo Công giáo trong sáu tháng sau đó. Ngài cho tôi biết rằng, biết về một đức tin chân thật là điều quan trọng nhất trong đời và sau khi đã tin nơi một Thiên Chúa thật, ta sẽ tiến tới thêm một bước nữa đó là làm chứng nhân cho sự hiện diện của Chúa nơi trần gian. Cha Maurus cho tôi mượn cuốn sách nhan đề "Giải thích về Giáo lý", trong đó chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa và những lý do tại sao con người tin vào Ngài. Nhận thức được bao nhiêu từ những tư tưởng trong sách tùy thuộc vào sự hiểu biết và đức tin của người đọc.
Cha Maurus bảo tôi: "Con có đức tin rồi đó! Cha ước mong rằng chồng con cũng tin để cả hai vợ chồng cùng được Rửa tội chung một ngày!".
Cuối năm đó, chúng tôi chuyển đến một chung cư trong Viện Đại Học Cheng Chi tại Mucha. Tại đây, hai cơn bão lớn đã xảy ra và thành phố bị lụt lội thường xuyên. Chứng mất ngủ sau thời gian tạm đỡ, nay lại trở lại nặng nề hơn khiến tôi phải nằm nhà thương mất bốn tháng. Mỗi đêm, tôi uống bốn hay năm viên thuốc ngủ nhưng đều vô ích. Bác sĩ Tang nói rằng tôi bị chứng u sầu tâm lý và chỉ có thể trị được bằng phân tích tâm lý. Hai tuần một lần tôi được phép về thăm nhà.
Một ngày nọ, vô tình nhìn vào phòng làm việc của chồng tôi, tôi thấy anh đang cầu nguyện trước một tấm ảnh Thánh. Hình ảnh đó làm tôi cảm động, sự cảm động mạnh mẽ đến nỗi tạo nên trong tâm hồn tôi một nguồn vui sung mãn, một sức mạnh tưởng chừng như chưa bao giờ có. Tự nhiên tôi cảm thấy khoẻ mạnh như thường.
Sau đó, vợ chồng tôi thường bàn luận về đời sống nhân đức. Anh khuyên tôi: "Em nên đọc một chương Kinh Thánh mỗi ngày, Chúa sẽ hướng dẫn, chỉ bảo và an ủi em! Nếu ta thật sự tin vào Chúa, ta sẽ được cứu rỗi. Bất cứ khi nào làm điều gì sai quấy, hãy đến xin Ngài thứ tha. Ngài toàn năng và thông suốt mọi sự, Ngài thấu biết cả những điều bí ẩn nhất trong tâm hồn chúng ta.".
Sau khi nghe những điều này, tôi cảm nhận được một bình an thật sự. Tôi thống hối, ăn năn về những lỗi lầm của đời mình. www.xuanha.net
NHỮNG MẢNH XƯƠNG KHÔ TRONG SA MẠC
(Lm. Bùi Đức Tiến)
Cảm nghiệm của một số quí vị dưới đây đã tìm thấy bình an, hạnh phúc trong Đạo Chúa.
Cảm nghiệm của Phu Nhân Giáo Sư Đại Học Mary Pan Wei, Taiwan (Đài Loan)
Từ đó, tôi hiểu được rằng chồng tôi, người mà tôi vẫn tưởng là một người vô thần đang muốn được gia nhập vào Giáo Hội Công giáo. Thường Cha Mark Tsai vẫn đến thăm chúng tôi. Chồng tôi mỗi ngày một tin tưởng hơn. Mỗi Chúa nhật, anh đi lễ vào lúc bảy giờ sáng. Tôi tin là Chúa đang hướng dẫn anh. Chúng tôi thường bàn luận về những vấn đề tôn giáo. Mặc dù tôi vẫn còn một chút bệnh về tâm thần nhưng bất cứ khi nào cầu nguyện tôi đều cảm thấy bình an.
Tháng Tư năm 1962. Tôi xuất viện, Cha Mark Tsai đến thăm chúng tôi mỗi tuần để hướng dẫn về Giáo lý. Cha đã giúp tôi vượt qua tất cả những khó khăn khổ sở trong cuộc sống và cuối cùng, tôi đã có thể ngủ được mà không cần đến thuốc ngủ nữa.
Tháng Sáu năm 1963, hai vợ chồng tôi được Rửa tội, anh chọn tên thánh Gioan, tôi chọn Mẹ Maria làm quan thày. Kể từ ngày Rửa tội hai vợ chồng tôi phụ Cha dâng lễ bảy giờ mỗi sáng Chúa nhật, bất kể trời mưa hay nắng không bao giờ chúng tôi vắng mặt. Chúng tôi đọc kinh mỗi buổi sáng và mỗi buổi tối. Chúng tôi cũng đã lãnh nhận Bí tích Thêm sức. Tâm hồn chúng tôi hướng về Chúa, chúng tôi làm chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người, yêu thương mọi người và luôn luôn sống theo ý Chúa.
|