HIỆP SỐNG
TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN C
2 Mcb 7,1-2.9-14 ; 2 Tx 2,16-3,5 ; Lc
20,27-38.
TIN VÀO CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG ĐỜI SAU
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 20,27-38
(27) Có mấy người thuộc
nhóm Xa-đốc đến gặp Đức
Giê-su. Nhóm này chủ trương không có sự
sống lại. (28) Mấy người ấy hỏi
Đức Giê-su : “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết
cho chúng ta điều luật này : “Nếu anh hay em
của người nào chết đi, đã có
vợ mà không có con, thì người ấy
phải cưới lấy nàng, để gây dựng
một dòng giống cho anh hay em mình”. (29) Vậy nhà
kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy
vợ, nhưng chưa có con thì đã chết.
(30) Người thứ hai, (31) rồi người
thứ ba đã lấy người vợ
góa ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều
chết đi mà không để lại đứa
con nào. (32) Cuối cùng, người đàn
bà ấy cũng chết. (33) Vậy trong ngày sống
lại, người đàn bà ấy sẽ là
vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy
nàng làm vợ ? (34) Đức Giê-su đáp
: “Con cái đời này cưới vợ
lấy chồng, (35) chứ những ai được
xét là đáng hưởng phúc đời
sau và sống lại từ cõi chết, thì
không cưới vợ cũng chẳng lấy
chồng. (36) Quả thật, họ không thể chết nữa,
vì được ngang hàng với các
thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là
con cái sự sống lại. (37) Còn về vấn
đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính
ông Mô-sê cũng đã cho thấy trong đoạn
văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức
Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham,
Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa
của tổ phụ Gia-cóp. (38) Mà Người
không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng
là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối
với Người, tất cả đều
đang sống.
2. Ý CHÍNH : Những người
phái Xa-đốc không tin có sự sống lại sau
này, nên khi nghe Đức Giê-su giảng về mầu nhiệm
kẻ chết sống lại, họ đã tìm cách phi
bác giáo lý ấy qua một câu chuyện giả tưởng
về bảy anh em nhà kia theo luật Thế Huynh của Mô-sê
đã tiếp nối nhau lấy cùng một người
đàn bà và đều chết mà không có con. Từ đó họ
đặt vấn đề : Nếu có chuyện kẻ chết
sống lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ
của ai trong bảy anh em ? Đức Giê-su đã
dùng Kinh Thánh để chứng minh có cuộc sống vĩnh
hằng sau đời tạm này, và còn cho biết cuộc sống
ấy như thế nào.
3. CHÚ THÍCH
:
- C 27-28 : + Có mấy người
thuộc nhóm Xa-đốc : Đây là một số
người thuộc hàng tư tế phục vụ
Đền thờ, là những người không tin có
sự sống lại cũng như không tin có đời
sau, đang khi người Pha-ri-sêu thì tin kẻ chết sẽ
sống lai (x. Cv 23,8), dựa vào lời sấm của ngôn sứ
Đa-ni-en như sau : “Trong số những kẻ an nghỉ
trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi
dậy : người thì để hưởng
phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô
nhục và bị ghê tởm muôn đời. Các hiền sĩ
sẽ chói lọi như bầu trời rực rỡ. Những
ai làm cho người người nên công chính, sẽ chiếu
sáng muôn đời như những vì sao.” (x. Đn 12,2-3). Còn
Đức Giê-su luôn khẳng định giáo lý về mầu
nhiệm kẻ chết sống lại đối lập với
phái Xa-đốc, nên phái này đã đến nêu thắc
mắc nhằm phi bác giáo lý kẻ chết sống lại
của Đức Giê-su và các người Biệt phái. +
Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều
Luật này... : Nhằm chế diễu giáo
lý về sự sống lại, nhóm Xa-đốc
đã trưng ra điều luật “Thế huynh” của
Mô-sê nội dung như sau: Nếu người anh lấy
vợ mà chết không con, thì em trai của anh ta
phải lấy bà chị dâu làm vợ. Đứa
con sinh ra đầu tiên sẽ được Luật
pháp công nhận là con của người anh
đã chết, để cho người anh có
con cái nối dòng (x. Đnl 25,5).
- C 29-33 : + Vậy nhà kia có bảy
anh em trai... : Nhóm này đưa ra câu chuyện giả
định chưa từng xảy ra. Sai lầm của
nhóm Xa-đốc là đã quan niệm rằng
khi sống lại thì người ta cũng sẽ
sống y như khi còn sống ở trần gian. Nghĩa
là hai người đã là vợ chồng
thì khi sống lại sẽ vẫn sống đời
vợ chồng với nhau.
- C 34-36 : + Con cái đời này
cưới vợ lấy chồng : “Con cái
đời này” là những người
thuộc về trần gian. Câu này có nghĩa là
: Vì sự sống của con người ở
trần gian có sinh có tử, nên người
ta cần phải lấy vợ lấy chồng để
sinh con cái nối dòng. + “Nhưng những ai
được xét là đáng hưởng
phúc đời sau và sống lại từ
cõi chết” : Câu này chỉ nhấn mạnh
đến việc kẻ lành sống lại để
được hưởng vinh quang, và không
đề cập đến số phận của kẻ dữ.
Thực ra không chỉ những người
được Thiên Chúa tuyển chọn và xét
xứng đáng mới được sống
lại, nhưng là tất cả mọi người:
tội lỗi cũng như công chính, đều được
sống lại, như thánh Phao-lô đã đề
cập trong sách Công Vụ như sau : “Tôi đặt
nơi Thiên Chúa niềm hy vọng này là: người
lành kẻ dữ sẽ sống lại” (Cv 24,15; x
Ga 5,28-29; Mt 25,34-45). + Thì không cưới vợ,
cũng chẳng lấy chồng : Họ không dựng
vợ gả chồng, một là vì thân xác
sẽ được siêu hóa không bao giờ chết
và nên giống như các thiên thần; Hai là vì
họ trở nên con cái Thiên Chúa, hay con cái
của sự sống lại, nghĩa là được
thừa hưởng một thế giới mới
và được sự sống mới từ
Thiên Chúa (x. Ep 1,5; Rm 8,18-21).
- C 37-38 : + Còn vấn đề kẻ
chết trỗi dậy... : Đức Giê-su đã
dựa vào Thánh kinh để chứng minh
có sự sống lại của những kẻ
đã chết. Người nêu ra một đoạn
trong sách Xuất hành : Khi hiện ra với Mô-sê
trong bụi gai đang cháy, Thiên Chúa đã tự
xưng là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa
của I-xa-ác và Thiên Chúa của Gia-cóp (x.
Xh 3,6). + Mà Người không phải là Thiên
Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa
của kẻ sống: Các Tổ phụ Áp-ra-ham,
I-xa-ác và Gia-cóp dù đã chết, nhưng
qua câu nói với Mô-sê, Thiên Chúa cho biết các
vị ấy hiện vẫn đang sống với Chúa.
4. CÂU HỎI : 1) Trong hai nhóm Pha-ri-sêu va
Xa-đốc, nhóm nào tin xác lòai người
ngày tận thế sẽ sống lại, nhóm nào
không tin ? 2) Luật “Thế huynh” của Mô-sê quy định
thế nào về việc kết hôn giữa em trai với
chị dâu ? 3) Phải chăng chỉ những người
lành thánh mới được sống lại
vào ngày tận thế, còn những kẻ
tội lỗi sẽ chết luôn và không bao giờ
sống lại ? 4) Đức Giê-su đã dựa
vào bằng chứng nào để khẳng
định mọi người sẽ sống lại
ngày tận thế ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Thiên Chúa không
phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng
là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc 20,38).
2. CÂU CHUYỆN :
1)
HÌNH ẢNH MINH HỌA VỀ CÁI CHẾT :
ĐÊ-VÍT MA-CỚT (David Marcus) là
một viên sĩ quan của quân đội Ít-ra-en đã
chết trận vào tháng 6 năm 1948. Người
ta đã tìm thấy một cuốn nhật ký, trong
đó ông đã ghi lại cảm nghĩ của ông về cái
chết có thể xảy ra với ông như sau :
“Tôi đang đứng trên một bến
cảng ở bờ biển. Trước mặt
tôi là một con tàu vừa trương buồm
chuẩn bị ra khơi. Con tàu trông mới hùng
vĩ và đẹp làm sao ! Tôi đứng nhìn
theo nó cho đến khi nó chỉ còn là một
vệt trắng ở đường chân trời.
Lúc đó, có một người bạn
đứng cạnh tôi nói to lên rằng : “Xem kìa,
con tàu đã biến mất rồi !”. Nhưng thực
ra nó đâu có biến mất. Nó vẫn còn
ở đó với chiếc buồm màu
trắng và thân tàu to lớn đúng như
kích thước khi tôi nhìn thấy nó đậu
ở bến cảng. Hiện giờ nó đang
trên đường đi đến một nơi
đã định trước. Kích thước
con tàu chỉ nhỏ dần đi trong mắt của
tôi và cuối cùng đã biến mất khỏi
tầm nhìn hạn hẹp của tôi mà thôi. Rồi
ít ngày sau, con tàu đó sẽ tới một
bến cảng mới. Tại nơi nó sắp
cập bến lại vang lên tiếng nói đầy vui
mừng của những người đang chờ
đón người thân : “Ồ con tàu chúng ta chờ
đợi đã đến rồi kìa !”. Con tàu
đó chính là hình ảnh cái chết của
mỗi người chúng ta”.
2) CẢM NGHIỆM VỀ THẾ GIỚI
ĐỜI SAU :
Từ sau khi quả bom nguyên tử ném xuống thành phố
Na-ga-sa-ki của Nhật Bản, bác sĩ TA-KA-SHI NA-GAI
(1908-1951) đã trở thành một nhân vật nổi
tiếng nhờ sự tận tâm và tấm lòng hy sinh cao cả
phục vụ các nạn nhân bị nhiễm phóng xạ nguyên
tử của ông. Sau khi ông chết, người ta đã tìm
thấy mấy dòng tâm sự ông để lại, cho biết
lý do tại sao từ một người vô thần ông
đã trở thành một người tín hữu có đức
tin mạnh vào Thiên Chúa như sau:
“Trong kỳ nghỉ Xuân, lúc đó tôi học
hết năm thứ hai đại học y khoa, mẹ tôi
bị trúng phong. Tôi hối hả chạy đến đầu
giường của mẹ tôi khi ấy chỉ còn một
chút hơi thở. Mẹ tôi trừng trừng mở mắt
nhìn tôi thở hắt ra. Cái nhìn cuối cùng của cặp
mắt bà mẹ đã sinh ra, đã giáo dục và đã thương
yêu tôi đến cùng. Cặp mắt này nói cho tôi một cách
rõ ràng: Sau khi chết, bà vẫn luôn ở bên tôi là Takashi yêu dấu
của bà. Tôi nhìn vào trong cặp mắt đó. Tôi, một
con người vốn không tin có linh hồn, tự nhiên
đã cảm thấy linh hồn mẹ tôi đang có đó;
linh hồn mẹ tôi khi chết đã lìa khỏi thân xác nhưng
vẫn tồn tại mãi mãi”. Rồi Na-gai viết thêm : ”Từ
đó, con người của tôi đã thay đổi hẳn:
Dù tôi đã cố gắng hết sức nhưng cũng không
thể khiến tôi tin rằng con người mẹ tôi
đã hoàn toàn bị tiêu diệt… Con mắt tôi lần đầu
tiên đã mở ra và nhìn thấy thế giới siêu hình”.
3) ÔNG VUA GIÀU CÓ
VÀ ANH HỀ NGU DỐT:
Có một ông vua kia rất giầu
sang phú quí. Ông sống như không cần biết đến
tương lai. Ông cũng chẳng cần biết có cuộc
sống sau khi chết hay không. Trong hoàng cung có một anh hề
chuyên giúp vui trong các bữa tiệc. Theo nhà vua thì anh hề này
có biệt tài giúp mang lại bầu khí vui tươi cho
khách dự tiệc. Nhưng anh ta lại là một người
ngu đần. Một ngày kia nhà vua cho gọi anh hề tới
trao cho anh một cây thanh trượng và nói : "Ngươi
hãy đi tìm cho ra một người ngu đần hơn
ngươi để trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ
trọng thưởng cho ngươi." Chú hề nhận
cây gậy và cố gắng đi tìm, nhưng anh ta tìm mãi mà
vẫn không thể tìm ra ai ngu đần hơn mình để
trao cây gậy.
Thời gian qua mau và tuổi
già cũng đến vào lúc nhà vua không ngờ. Đến
khi sức lực cạn kiệt, cảm thấy ngày gần
đất xa trời không còn xa, nhà vua liền cho gọi anh
hề đến nói chuyện. Nhà vua đã tâm sự với
anh hề như sau:
- Trẫm sắp phải
đi một chuyến đi thật xa.
- Dạ thưa Đức
Vua sắp đi đâu ạ?
- Ta cũng chẳng biết
nữa.
- Dạ thưa đi rồi
bao giờ Đức Vua trở về?
- Không bao giờ , không bao
giờ con ạ.
Anh hề là một người
ngu nhưng giờ đây anh lại suy nghĩ rất chính
xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy trước kia vua
đã trao, trao lại vào tay nhà vua, rồi im lặng ta về,
lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui sướng vì đã hoàn
thành nhiệm vụ. Giờ đây anh đã tìm ra một người
ngu hơn mình. Đó chính là ông vua trước kia tự hào
thông minh hơn anh gấp vạn lần.
3. SUY NIỆM :
Thực tế cho thấy con người ta ai cũng
đều phải chết ! Chết là giai đoạn cuối
cùng trong bốn giai đoạn cuộc sống của mỗi
người chúng ta là : Sinh- lão- bệnh- tử. Nhưng chết
là gì và sau khi chết chúng ta sẽ đi đâu ? Ta phải
làm gì để được sống lại trong cuộc
sống vĩnh hằng đời sau ?
1) Chết là gì và chết rồi con người
sẽ đi đâu ? :
Chết là khi linh hồn lìa ra khỏi xác. Hầu hết
nhân loại đều tin : chết không phải là đi vào
cõi tiêu diệt, nhưng là trải qua một cuộc biến
đổi từ cuộc sống vật chất trần
gian sang cuộc sống vĩnh cửu đời sau được
diễn tả qua câu nói : ”Sinh ký tử qui” - sống chỉ
là ở tạm, chết mới là đi về. Nhưng
đi về đâu ? Thưa là đi về với cội
nguồn, về cõi vĩnh hằng với Đấng đã
tạo dựng nên mình.
Riêng đối với các tín hữu là những
người tin vào Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và
đã đi theo con đường “qua đau khổ vào
trong vinh quang” của Người thì chết là trải qua
cuộc biến đổi với Đức Giê-su như lời
thánh Phao-lô : “Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ
cùng sống với Người” (2 Tm 2,11). Thánh Au-gút-ti-nô cũng
nói lên niềm khát mong được nghỉ yên trong Chúa ở
đời sau qua lời cầu nguyện : ”Lạy Chúa, Chúa
đã dựng nên con hướng về Chúa, nên tâm hồn
con vẫn còn khắc khoải mãi đến khi nào con được
nghỉ yên trong Chúa”. Còn thánh nữ Tê-rê-sa Hài đồng
Giê-su lúc sắp chết cũng đã nói với các chị
em đang đứng chung quanh về niềm tin của mình
vào cuộc sống vĩnh hằng như sau : ”Em không chết
đâu, em sắp đi vào cõi sống”.
2) Hai lập trường đối lập
về mầu nhiệm kẻ chết sống lại :
- Trong thời Đức Giê-su, các người Biệt
phái (Pha-ri-sêu) tin rằng: ngoài cuộc sống đời này
còn một cuộc sống vĩnh hằng ở đời
sau. Còn phái Xa-đốc gồm các tư tế Đền
thờ lại không tin có cuộc sống đời sau như
vậy. Do đó khi nghe Đức Giê-su giảng về sự
kẻ chết sống lại, họ đã phi bác lại bằng
việc đặt ra một câu chuyện giả tưởng
không có thực như sau : Nhà kia có bảy anh em trai, người
thứ nhất lấy vợ rồi chết mà không có con. Theo
luật “Thế huynh” của Mô-sê, người thứ hai phải
lấy người vợ góa đó, nhưng rồi người
này cũng chết không con. Tới người thứ ba, tư,
năm, sáu, bảy đều lần lượt lấy người
vợ góa đó và cũng đều chết mà không để
lại một người con nào. Vậy nếu có sự sống
lại thì người đàn bà ấy sẽ là vợ của
ai trong bảy anh em ? Mục đích của phái Xa-đốc
khi đưa ra câu chuyện này là để chứng minh niềm
tin vào sự sống lại là vô lý. Vì nếu còn có cuộc
sống đời sau như vậy thì chẳng lẽ người
đàn bà ấy lại là vợ của cả bảy anh em
nhà đó hay sao ?
- Để trả lời, trước hết
Đức Giê-su cho biết tình trạng người ta sau
khi sống lại sẽ không cưới vợ lấy chồng.
Cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn thanh khiết
như "các thiên thần". Họ sẽ trở thành
"con cái của Thiên Chúa" (Lc 20,34-36). Tiếp đến
Đức Giê-su xác nhận sự kẻ chết sống lại
là điều chắc chắn vì dựa trên Lời Thánh
Kinh: Khi hiện ra với ông Mô-sê trong bụi gai cháy mãi không
tàn, Đức Chúa đã tự xưng mình như sau : “Ta là
Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp” (Xh 3,6). Câu
này hàm ý Thiên Chúa là Đấng hằng sống và điều
khiển thế giới người sống. Các tổ phụ
dân Do Thái dù đã chết nhưng linh hồn các ngài vẫn
đang sống và thân xác các ngài sau này cũng sẽ sống
lại.
3) Niềm tin của người tín hữu
về cuộc sống đời sau :
Khi đọc kinh Tin kính, các
tín hữu tuyên xưng đức tin vào mầu nhiệm này
như sau : ”Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Thánh
Phao-lô cũng đã khẳng định về một cuộc
sống mới trong Đức Ki-tô : ”Nếu chúng ta đặt
hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi,
thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết
mọi người. Nhưng không phải thế ! Đức
Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường
cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cr 15,19-20). Cuộc
sống của chúng ta nơi
trần gian là cuộc hành trình về quê trời. Cuộc
sống ấy sẽ ra sao tùy thuộc vào cuộc sống
hiện tại của chúng ta trên trần gian theo nguyên tắc
: “gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy”.
4) Thể hiện đức tin vào mầu
nhiệm này thế nào ? :
- Một là không nên sợ chết : Những
người không có đức tin sẽ rất sợ chết
vì cho rằng chết đi là hết. Nếu người tín
hữu sợ chết là tự mâu thuẫn với niềm
tin của mình về một cuộc sống vĩnh hằng
sau khi chết. Sách Công Vụ Tông Đồ đã thuật lại
về cái chết anh dũng của Phó tế Tê-pha-nô tử
đạo như sau : “Được đầy ơn Thánh
Thần, ông đăm đăm nhìn trời thấy vinh
quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giê-su đứng bên hữu
Thiên Chúa. Ông nói : “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và Con Người
đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,55-56).
- Hai là phải chuẩn bị cho cuộc sống
mai hậu : Nếu một người chỉ lo kiếm tiền
rồi lại tim cách hưởng thụ các nhu cầu vật
chất thể xác thì sẽ chỉ gặt hái được
thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua. Muốn đạt
được hạnh phúc lâu dài cần phải có đức
tin và sống phù hợp với đức tin ấy như
câu ngạn ngữ tây phương sau đây :
“Nếu bạn muốn được hưởng
hạnh phúc một ngày, hãy mua một một bộ quần
áo mới.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh
phúc một tuần, hãy giết thịt một con heo.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh
phúc một năm, hãy lập gia đình với người
mình yêu.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh
phúc một đời, hãy sống một cuộc sống lương
thiện.
Nếu bạn muốn được hưởng hạnh
phúc muôn đời, hãy sống như một tín hữu tốt
lành”.
Người tín hữu tốt sẽ luôn sống
giới răn mến Chúa yêu người theo lời Chúa dạy
trong “Tám Mối Phúc Thật” (x. Mt 5,3-12). Thánh Phao-lô cũng
cho biết có sự thưởng phạt người lành kẻ
dữ trong ngày tận thế : ”Ngày đó Thiên Chúa sẽ thưởng
phạt mỗi người tùy theo việc họ đã làm”
(Rm 2,6).
- Ba là năng cầu nguyện cho các người
thân qua đời : Hằng năm, Hội thánh dành
riêng tháng Mười Một để khuyến khích
các tín hữu cầu nguyện cho ông bà cha mẹ
đã qua đời. Đây cũng là cơ hội
giúp chúng ta suy nghĩ về bốn sự sau
là: sự chết, sự phán xét, thiên
đàng và hỏa ngục. Chính sự chết
dạy cho chúng ta biết phải sống như thế
nào. Niềm tin vào Thiên đàng hay hỏa ngục sẽ
giúp chúng ta tránh những đam mê hạnh phúc
giả tạo đời này và động viên chúng ta
can đảm chịu đựng những đau
khổ gặp phải để đền tội và
đi con đường “Qua đau khổ vào trong vinh quang”
để về quê trời đời sau. Trong tháng này, khi
làm các việc lành cầu cho các linh hồn là chúng ta thể
hiện niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống
lại và cuộc sống vĩnh hằng đời sau.
4. THẢO LUẬN : Ngày nay nhiều người
chỉ biết đi tìm thứ hạnh phúc bọt
bèo chóng qua trong những thú vui nhục dục
và những đam mê bất chính. Bạn sẽ
làm gì để hồi tâm sám hối và quyết
tâm sống cuộc đời bác ái yêu thương
để tuyên xưng đức tin vào cuộc sống vĩnh
hằng đời sau ?
5. NGUYỆN CẦU :
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Khi đọc kinh
Tin kính, tuy miệng con tuyên xưng mầu nhiệm kẻ
chết sống lại và tin có sự sống
đời sau, nhưng trong thực hành, con lại
thường lỗi đức công bình khi có
cơ hội, gây ra bao thiệt hại về vật chất
cũng như tinh thần cho tha nhân, mà không nghĩ
đến việc con sẽ phải đền trả khi
ra trước tòa Chúa phán xét sau này.
Dường như đức tin của con mới
chỉ là thứ đức tin lý thuyết
và không đủ mạnh để ngăn cản con
khỏi sống ích kỷ và tội lỗi. Trong
Tin mừng hôm nay, chính Chúa đã khẳng
định rằng : Thân xác lòai người
sau này sẽ sống lại. Khi ấy người
ta sẽ không còn cưới vợ lấy chồng,
không còn bon chen kiếm sống như ở trần
gian, nhưng mọi người sẽ trở nên
giống như các thiên thần của Thiên Chúa và
được sống hạnh phúc muôn đời.
- LẠY CHÚA, con muốn rằng :
ngay từ bây giờ con sẽ thuộc trọn về
Chúa. Con xin dâng lên Chúa tất cả tâm tư, cùng
những niềm vui nỗi buồn và những ước
vọng của con. Xin Chúa thương nhận và
ban xuống dồi dào hồng ân cứu độ
cho con. Xin cho con luôn phó thác cuộc sống trong tay
Chúa và sẵn sàng đón nhận mọi
thử thách, với niềm tin rằng chúng
đều hữu ích cho phần rỗi đời
đời của con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|