HỌC HỎI PHÚC ÂM CHÚA NHẬT 32
THƯỜNG NIÊN NĂM C Lc
20,27-38 ( Lm Cao Sieu,SJ)
1. Câu
chuyện trong bài Tin Mừng này diễn ra
ở đâu? Đức Giêsu đang làm gì ở đó?
·
Dựa
trên Lc 20,1 ta có thể nghĩ rằng câu chuyện trong bài
Tin Mừng này diễn ra ở Đền thờ Giêrusalem,
nơi Đức Giêsu giảng dạy trong những ngày cuối
đời, và là nơi Ngài gặp các vị lãnh đạo
tôn giáo là các thượng tế, kinh sư và kỳ mục.
2. Trước khi có cuộc
tranh luận trong bài Tin Mừng này,
Đức
Giêsu đã phải đối diện
với mấy cuộc tranh luận khác và tranh luận
với ai? Đọc Lc chương 20.
·
Trước
khi có cuộc tranh luận ở Lc 20,27-40, Đức Giêsu
đã có những cuộc tranh luận khác với giới
lãnh đạo Do-thái giáo trong bối cảnh Đền thờ.
Trước hết, Ngài bị các thượng tế, kinh
sư và kỳ mục hạch hỏi về chuyện
đuổi người buôn bán ra khỏi Đền thờ,
và Ngài đã làm họ phải im (Lc 20,1-8). Kế đó, Ngài
kể dụ ngôn “các tá điền sát nhân” để ám chỉ
việc Ngài sắp bị giết bởi các kinh sư và
thượng tế, điều đó khiến Ngài bị họ
tìm cách bắt (Lc 20,9-19). Cuối cùng, Ngài phải trả lời
câu hỏi của các kinh sư và thượng tế về
việc có nên nộp thuế cho Xê-da không. Ngài đã khôn khéo
tránh được cái bẫy của họ (Lc 20,20-26).
3.
Nhóm Xa-đốc là nhóm nào? Họ
có nét gì đặc biệt so với
nhóm Pharisêu? Đọc Lc 20,27; Cv 4,1; 23,6-8.
·
Trong bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu phải trả lời câu
hỏi của nhóm Xa-đốc. Nhóm này là nhóm người
thuộc giai cấp thượng lưu, giàu có, có quyền
điều hành Đền thờ. Họ có chân trong Thượng
Hội Đồng của Do-thái giáo (Cv 23,6-10). Họ chỉ
nhìn nhận Ngũ Thư là Sách Thánh, nên họ không tin chuyện
thân xác kẻ chết sống lại (Lc 20,27; Cv 4,1), vì họ
khẳng định Ngũ Thư không dạy chuyện
đó. Ngược lại, nhóm Pharisêu tin thân xác kẻ chết
sống lại vào ngày sau hết (Cv 23,8). Như vậy hai
nhóm có sự khác biệt về giáo lý ở điểm này.
Có thể “mấy người thuộc nhóm kinh sư” ở
Lc 20,39 là người thuộc phái Pharisêu, nên họ dễ
chấp nhận lời giảng dạy của Đức
Giêsu.
4. Đọc 2 Ma-ca-bê 7,9.23;
Đa-ni-en 12,2-3; Khôn ngoan 3,1-5. Những sách này
có tin vào sự phục sinh thân xác không?
Niềm tin vào sự sống đời sau trong
Cựu Ước xuất hiện vào khoảng
thời gian nào?
·
Niềm
tin của nhóm Xa-đốc thật ra là niềm tin truyền
thống của người Do-thái. Họ tin rằng ai chết,
dù tốt hay xấu, cũng đều phải vào chung một
chỗ và ở mãi một chỗ, đó là Shơ-ôl hay Âm phủ,
vì sự thưởng phạt của Thiên Chúa đã diễn
ra ở đời này rồi. Ở nơi âm phủ tối
tăm, người chết sống lây lất như những
chiếc bóng, không hoạt động, không niềm vui.
Khoảng thế kỷ thứ hai
trước công nguyên, từ việc nhiều người
Do-thái chịu tử vì đạo bởi quân Hy-lạp, niềm
tin vào sự sống lại của những người
đã chết trở nên rõ nét hơn. Đa-ni-en 12,2-3 viết:
“Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất,
nhiều người sẽ chỗi dậy, người
thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì
để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời.”
Như thế trong các sách từ thế kỷ 2 trước
Công Nguyên (như 2 Ma-ca-bê 7,9.23;
Khôn ngoan 3,1-5), ta thấy có niềm tin vào sự phục
sinh của thân xác và sự thưởng phạt sau cái chết.
Nhóm Pharisêu đã tin theo những sách này.
5. Đọc Lc 20,28; Sáng thế
38,8; Đệ nhị luật 25,5-10. Bạn nghĩ gì
về tập tục này? Mục đích của
nó là gì? Thời nay, nếu không có con,
người ta làm gì?
·
Sách
Sáng thế 38,8 và sách Đệ nhị luật 25,5-10
nói đến một luật khá lạ lùng đối với
chúng ta ngày nay. Đó là luật về anh em chồng (Luật
Lê-vi-ra). Theo luật này, một bà góa mà không có con trai thì anh
em chồng của bà có nhiệm vụ phải lấy bà
để người chết có con trai nối dòng. Người
con này sẽ thừa hưởng sản nghiệp của
người cha quá cố và lo săn sóc cho bà. Đối với
người Do-thái xưa, việc có con nối dòng là hết
sức quan trọng. Họ muốn “duy trì tên của người
đã chết” (Đnl 25,6) bằng đứa con mang tên của
người ấy. Chúng ta ngày nay không coi việc có con trai nối
dòng là quá quan trọng. Ai không con có thể xin con nuôi.
6.
Đọc Lc 20, 29-33. Bạn nghĩ gì về câu
hỏi cắc cớ này? Mục đích
của người hỏi câu hỏi này là
gì?
·
Nhóm
Xa-đốc đã nói với Đức Giêsu về luật
này, và đưa ra một trường hợp họa hiếm
để châm biếm Ngài (Lc 20,29-33), vì họ biết Ngài
tin kẻ chết sống lại. Một bà góa chồng phải
lấy thêm sáu người anh hay em chồng để mong
chu toàn luật Lê-vi-ra của Môsê, dù rốt cuộc bà
cũng chẳng có đứa con nào. Câu hỏi họ đặt
ra là: nếu tin vào sự sống lại, thì khi được
sống lại ở đời sau, bà này sẽ là vợ của
ai, vì bà đã lấy cả bảy ông làm chồng.
7. Đọc Lc 20, 34-36.
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi
trên ra sao? Bạn nghĩ gì về câu trả
lời của Ngài?
·
Đức
Giêsu đã trả lời câu hỏi trên bằng cách cho thấy
cuộc sống đời sau không giống cuộc sống
đời này như nhóm Xa-đốc nghĩ. Đời
sau không phải là sự kéo dài của đời này. Tuy ở
đời sau người ta vẫn nhận nhau là vợ chồng,
nhưng tương quan vợ chồng ở đời sau
không giống như ở đời này. Không có chuyện
tranh cãi xem bà này là vợ của ai, không có chuyện sinh con
đẻ cái. Người ta trở nên giống các thiên sứ
và được trường sinh bất tử (Lc 20,36).
8. Đọc Lc 20,37-38.
Đức Giêsu đã dùng câu Kinh Thánh
nào để chứng minh có sự phục
sinh? Đọc Xuất hành 3,6.15-16. Bạn nghĩ
gì về lập luận của Đức Giêsu?
·
Rõ ràng
Đức Giêsu tin vào sự sống lại (= trỗi dậy)
của những người đã chết (Lc 20,37). Và Ngài
đã đã trích sách Xuất hành nằm trong bộ Ngũ
Thư để chứng minh cho nhóm Xa-đốc thấy
niềm tin này. Xuất hành 3,6.15-16 cho thấy ĐỨC
CHÚA thường nhận mình là Thiên Chúa của Ápraham, Thiên
Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp. Đức Giêsu khẳng
định các tổ phụ này là những người
đang sống, dù họ đã chết từ lâu rồi
(xem Lc 13,28; 16,22-31). Sau khi chết, Ápraham chưa được
lên trời ngay, nhưng ông được sống cách đặc
biệt trong Shơ-ôl (sách GL của HTCG, số 633), đợi
chờ Chúa Giêsu Đấng Cứu Chuộc đến giải
thoát.
CÂU
HỎI SUY NIỆM : Theo bạn, niềm tin vào sự sống lại ở đời sau có ảnh hưởng gì trên
cuộc sống ở đời này của chúng ta không? Tin vào sự sống lại của thân xác
có làm thay
đổi thái độ của chúng ta
đối với thân xác
không?
|