LẰN RANH
Lằn ranh là biên độ phân định giữa cái này và cái kia,
nơi đây và nơi đó, không chỉ có nghĩa đen mà có cả nghĩa bóng, và có thể mang nghĩa tốt hoặc
xấu. Giữa thiện và ác cũng có lằn ranh rõ ràng,
đặc biệt nhất là lằn ranh giữa Thiên
Đàng và Hỏa Ngục.
Người ta dùng thuật
ngữ “Lằn Ranh Đỏ” để chỉ một
giới hạn, một ranh giới vô hình được vạch
ra, nhằm cảnh báo không được phép vượt
qua vì có nguy cơ bị trừng phạt hoặc chịu
hậu quả bất lợi. Cụm từ này có nguồn
gốc từ tiếng Anh (Red Line), và bắt nguồn sâu xa
từ tiếng Do Thái (קו אדום,
Kav Adom). Danh từ này được đề cập trong
một bài báo có tựa đề là “Lằn Ranh Đỏ
Mong Manh”.
Một
số quốc gia cũng đặt ra “lằn ranh đỏ”
với các nước khác, đặc biệt là đối
với các nước hiếu chiến, nguy hiểm. Ngày
nay, hầu như các quốc gia trên thế giới đều
đặt ra “lằn ranh đỏ” đối với Trung
quốc, bởi vì người ta nhận thấy nước
này như loại virus tiềm ẩn nhiều nguy cơ
độc hại về nhiều lĩnh vực. Khi biết
cái xấu mà cứ lao đầu vào thì chính mình là kẻ ngu
xuẩn. Tiền nhân nói nhẹ mà thấm thía:
“Chọn bạn mà
chơi.”
Các tôn
giáo cũng có những “lằn ranh” khác nhau. Công giáo khác hẳn với các tôn giáo khác là tin có sự sống lại
và sự trường
sinh bất tử. Đó
không chỉ là niềm tin mà còn là sự thật minh nhiên, bằng chứng là Chúa Giêsu đã bị người ta giết chết, thế
nhưng Ngài đã chiến thắng
tử thần và phục sinh vinh hiển.
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa Hằng Sinh, đúng như Chúa Giêsu minh định: “Chính Thầy là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.” (Ga 14:6) Có điều đặc biệt
là những ai tin Ngài thì Ngài cũng cho sống lại trong ngày sau hết, nhưng đây KHÔNG là tình trạng mà người ta gọi là kiếp luân hồi – nghĩa là không có kiếp luân hồi.
Với người
vô thần thì chết là
hết,
nhưng với người có niềm tin vào Đức Kitô thì chết là
ngưỡng để vào cõi vĩnh
hằng
– là hóa kiếp, là biến đổi, sống chứ không chết. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” CHẾT mà lại là
SỐNG.
Những người không có
niềm
tin không thể tin nổi, bởi
vì thông thường thì ai cũng tham sanh và úy tử, thậm
chí còn biến thành hèn nhát, chứ mấy ai dám liều mạng. Thế nhưng cái nghịch-lý-thuận “chết
là sống” kia chỉ có trong niềm tin Kitô giáo, mà là thật chứ không mơ hồ hoặc ảo tưởng. Và điều này
được minh chứng sống động qua các vị tử đạo, cả xưa và nay, thời nào
cũng có.
Từ xa xưa,
Kinh Thánh cho biết sự kiện
về một người mẹ bị bắt cùng với bảy người con trai. Sau
đó, vua An-ti-ô-khô truyền đánh họ bằng roi và gân bò để bắt họ ăn thịt heo – loại thịt cấm ăn theo luật
Môsê. Nhưng một người
lên tiếng thay mặt các anh em: “Vua muốn tra hỏi chúng tôi cái gì? Vua muốn biết điều
gì? Chúng tôi sẵn sàng THÀ CHẾT chẳng thà vi phạm luật pháp của cha ông chúng tôi.” (2 Mcb 7:1-2)
Rất
can đảm, ngoan cường. Thật xứng danh tín nhân!
Anh vẫn hiên ngang và dõng dạc nói trước khi chết: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ
chúng tôi ra khỏi cuộc
đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của Vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để
hưởng sự sống đời đời.” (2 Mcb 7:9) Lại một lần
nữa chứng tỏ chí
khí nam nhi, minh chứng niềm tin kiên cường, không sợ thế lực
trần gian. Rất đáng
khâm phục.
Đúng như Kinh Thánh xác
định:
“Cậy vào thần thế vua quan, chẳng bằng ẩn
náu ở bên Chúa Trời.” (Tv 118:9)
Người này chết, đến lượt người
thứ ba bị tra tấn. Vừa được yêu cầu, anh liền thè lưỡi, can đảm đưa tay ra, và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này, là do Chúa Trời ban.
Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó, và tôi hy vọng nhờ Chúa Trời, tôi sẽ lấy lại được.” (2 Mcb 7:11) Quá đỗi kỳ lạ,
đến nỗi nhà vua và
quần
thần đều phải sửng sốt vì lòng can đảm của một
người trẻ mà dám coi
cái chết
nhẹ tựa lông hồng. (2 Mcb
7:12)
Đến lượt
người thứ tư cũng bị tra tấn như vậy.
Khi sắp tắt thở, anh xác định: “Thà chết vì tay người đời
đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ
được Người cho sống lại. Còn vua, vua sẽ không được sống lại
để hưởng sự sống đâu.” (2 Mcb 7:14) Và rồi tất cả bảy mẹ con đều
có mẫu số chung: Can
đảm chết vì đức tin. Chết
là sự giải thoát và là mối lợi đối với họ.
Cuối cùng, chính sự chết là “thù địch cuối cùng bị tiêu
diệt.”
(1 Cr 15:26) Đó là điều minh nhiên. Hại được người thì cười ha hả, rồi luật nhân quả sẽ tỏ tường.
Đối với
người đời, những người-tin-vào-Đức-Kitô là đối thủ, bị coi là “kẻ thù không đội trời
chung.” Kể cũng lạ, sống
tốt, làm thiện mà lại bị ghét. Tại sao? Vì đối lập với
ma quỷ. Tuy nhiên, mặc dù bị bách
hại
đủ cách, cá nhân hoặc tập thể,
các tín nhân vẫn không kiếp nhược, không chịu khuất phục, luôn kiên tâm tin tưởng cầu nguyện
liên lỉ, một mực
yêu mến Sự Thật
và Công Lý của Thiên Chúa mà thôi: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời
con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng
nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng
điêu ngoa.” (Tv 17:1) Tín nhân đích thực là thế, đúng như Thánh Phaolô đã xác định: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi
Đức Kitô Giêsu.” (Rm 8:39)
Ác nhân
càng ngày càng gia tăng bách hại các
tín nhân khắp nơi, nhưng càng
bị
bách hại, các tín nhân vẫn tín trung với Thiên Chúa, vì họ chân nhận rằng
chỉ có Ngài là cùng đích
và cứu
cánh: “Con dõi vết chân Ngài, con không vấp ngã. Con kêu lên Ngài, lạy Thiên Chúa, vì Ngài đáp lời con. Xin lắng
tai và nghe tiếng con cầu.” (Tv 17:5-6) Chúa chưa ra tay giải thoát ngay, không phải Ngài muốn thử lòng, mà Ngài thấy chưa thực sự cần thiết, và Ngài biết họ là những môn đệ chân chính của Ngài.
Chắc
chắn rồi Ngài sẽ ra tay cứu
độ, Hỏa Ngục còn chưa làm gì được thì
đáng gì những kẻ bách hại Giáo Hội của Ngài.
Vững lòng trung tín, các tín nhân tha thiết van xin Thiên Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi,
dưới bóng Ngài, xin
thương che chở.” (Tv 17:8) Lời cầu
nguyện đầy ắp niềm tín thác, ngay cả trong những lúc quẫn bách nhất. Họ biết mình thế nào
nên không hề run sợ, không hề nhát đảm, chỉ muốn bảo vệ Chân Lý của Thiên Chúa Hằng Sinh: “Về phần con, sống công minh chính trực, con sẽ
được trông thấy mặt Ngài, khi thức giấc,
được thoả tình chiêm ngưỡng Thánh Nhan.” (Tv 17:15) Ánh
Đức
Tin sáng ngời, thật tuyệt
vời!
Thời Cựu
Ước, khi vua Khít-ki-gia
lâm trọng
bệnh, ông chân thành xác tín và
cầu
xin: “Lạy Chúa, ngày
tháng đời con là của Chúa, sự sống linh hồn con thuộc về
Ngài. Xin chữa lành và cho con được sống.” (Is 38:16) Ông đã được Thiên Chúa nhậm lời, cho ông được bình
an, tha tội cho ông và cứu ông khỏi hố diệt vong. (Is 38:17)
Ngày
xưa, Thánh Phaolô cũng đã từng tha thiết cầu
chúc các Kitô hữu: “Xin chính Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, và xin Thiên Chúa là Cha chúng ta,
Đấng yêu
thương chúng ta và đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất
diệt và niềm cậy trông tốt đẹp, xin các Ngài an ủi và cho tâm hồn anh em được
vững mạnh, để làm và nói tất cả những gì tốt lành.” (2 Tx 2:16-17) Làm và
nói luôn phải đi đôi, không
thể
nói suông mà không làm, có thể không cần nói
nhưng phải làm. Đó mới là người luôn
đứng
thẳng, nhìn thẳng, và trực ngôn
với
bất kỳ kẻ thù nào,
dù địch thù rất nham hiểm
và tàn ác. Cây ngay chẳng sợ chết
đứng.
Điều mong ước
của Thánh Phaolô rất thực tế:
“Xin Chúa hướng dẫn tâm hồn anh em, để anh em biết yêu mến Thiên Chúa và biết chịu đựng như Đức
Kitô.” (2 Tx 3:5) Với tình yêu, người ta có thể vượt qua mọi trở ngại
và đủ sức chịu
đựng mọi thứ. Với lòng yêu thương chân thành, người ta cũng có thể làm
bất
cứ thứ gì. Tình yêu rất kỳ diệu,
càng kỳ diệu hơn
khi tình yêu đó dành cho Thiên
Chúa.
Ở
đâu cũng có những người
mưu mô thâm độc, chẳng
trừ ngõ ngách hoặc khe hở
nào, họ là hiện thân
của
quỷ sứ. Đôi khi họ ảo
tưởng hoặc ngộ nhận nên tỏ ra mình nhân đức và muốn chứng
tỏ mình biết “thương
người như thể thương thân,” năng nổ và nhiệt thành
sinh hoạt
các hội đoàn, nhưng lại ngấm ngầm
gây chia rẽ giữa hội
này với đoàn nọ, kỳ thì nhóm nọ với nhóm kia,… Loại “vẻ
đạo đức” đó chỉ là tấm bình phong mà thôi. Thực sự hành động vì
Chúa hay vì ai, hoặc vì cái gì?
Trình thuật Lc 20:27-40
cho biết rằng có mấy người
thuộc nhóm Sa-đốc đến
gặp Chúa Giêsu. Họ là những người chủ trương
không có sự sống lại.
Họ lải nhải hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, ông Môsê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải
lấy nàng, để sinh con nối
dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai.
Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ
hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh
em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết.
Vậy trong ngày sống lại,
người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” (Lc
20:28-33) Rất đểu, đểu thật! Ra cái vẻ lịch sự, nhưng họ chỉ
ngọt cái miệng thế
thôi, chứ bụng dạ
trương phình và bốc mùi xú uế. Mức độ nham hiểm của
họ rất tinh vi, đôi
lúc lại
“giả mù sa mưa” và
mưu tính giăng bẫy khác.
Sa-đốc nói dóc, thèo lẻo lắm điều.
Chúa Giêsu cũng làm “một lèo” luôn: “Con cái đời này cưới vợ lấy
chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng.
Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.
Còn về vấn
đề kẻ chết trỗi dậy, chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong
đoạn văn nói về bụi
gai, khi ông gọi Đức
Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ
I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ
Gia-cóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết,
nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống,
vì đối với
Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20:34-38) Mấy kinh sư vào hùa và nịnh: “Thưa Thầy, Thầy nói hay lắm.” Và rồi họ im re!
Người ta nói: “Kẻ cướp gặp
bà già.” Đừng tưởng bở. Bảy
mươi còn phải học bảy
mốt kia mà. Không nói thì thôi,
họ
càng nói ra thì càng lòi cái ngu,
không phải ngu bình thường mà là dạng ngu bẩm sinh, ngu quốc tế,
ngu tận số, ngu siêu
đẳng,
ngu trên từng cây số,… nói
chung là “đại ngu”. Ngu mà chảnh, xấu
mà đỏng đảnh.
Họ đành câm họng, im như thóc thối, bởi vì nghe Sư Phụ Giêsu
phân tích rạch ròi, chí lý. Thôi thì bồ hòn có đắng mấy cũng ráng ngậm và
ráng ra vẻ “ngọt như mía
lùi” vậy.
Cũng đáng đời lắm!
Thế nhưng không như
thế
cũng không được, bởi vì có như vậy mới “xứng
tầm” với những kẻ
mặt người mà lòng ma
dạ
quỷ. Chẳng oan ức gì đối với những kẻ chuyên “ngậm máu phun người” như đám họ. Đúng như tiền nhân nói: “Thần khẩu hại
xác phàm.” Chắc chắn họ phải lủi
đi cho nhanh ngay sau đó,
chứ
còn mặt mũi nào nữa. Mặt họ có chai cỡ nào
cũng không vênh váo được nữa rồi.
Chân
phước Henry Suso (1295–1366,
tu sĩ
Dòng Đa-minh) nói: “Người ta thường
mua hỏa ngục bằng một cái giá quá đắt, vì họ chịu hy sinh bản thân để làm đẹp lòng thế gian.” Thật đáng quan ngại và đáng để chúng ta xem lại các
động
thái của chính mình.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban thêm ơn khôn
ngoan, các đức đối thần và đối nhân, để chúng con luôn sống rạch ròi, nghiêm túc, thẳng thắn, mạnh
mẽ, bất khuất, can đảm hành động theo sự thật
của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ
duy nhất của nhân
loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|