MÙA HOA ĐỨC MẸ
Thiên nhiên tươi đẹp mùa hoa
Mùa hoa Đức Mẹ diệu kỳ linh thiêng
Đối với người Công giáo, Tháng Năm
được mệnh danh là Tháng Hoa – Mùa Hoa Đức Mẹ.
Truyền thống Công giáo dành Tháng Năm mừng kính Đức
Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa, và chúng ta có truyền thống
Dâng Hoa – cả hoa thật và hoa lòng.
Gọi là Tháng Hoa cũng hợp
lý, vì tháng này hoa nở nhiều sau khi có những giọt mưa
đầu mùa, dù đang là mùa Hạ oi ả, nóng bức.
Hoa còn gọi là bông, đôi khi gọi
ghép là “bông hoa”. Hoa là bộ phận chứa
cơ quan sinh sản đặc trưng của thực-vật-có-hoa.
Về mặt cấu trúc thực vật học,
hoa là một dạng đặc biệt, có thể tạo sự
thụ phấn chéo (kết hợp của phấn hoa và nhụy
từ các cây hoa khác) hoặc cho phép tự lai ghép (kết hợp
của phấn hoa và nhụy từ cùng một hoa). Hoa tạo ra quả (trái) và hạt.
Cấu tạo đầy đủ của
hoa gồm: cuống hoa, lá bắc, đài hoa (lá đài), tràng
hoa (cánh hoa), bộ nhị (vòng kế tiếp) và bộ nhụy
(vòng trong cùng). Ngoài chức năng chứa cơ
quan sinh sản của thực-vật-có-hoa, hoa còn được
trồng và khai thác nhằm mục đích trang trí, làm đẹp,
thậm chí còn dùng làm nguồn cung cấp thực phẩm và
dược liệu.
CÁC LOÀI HOA
Hoa có nhiều loại, đa dạng và đa
sắc, có loài tỏa hương thơm,
có loài không hương thơm. Muôn hoa, muôn vẻ.
Có lẽ “buồn” nhất là kiếp “hoa dại”,
thế nhưng hoa dại là là… hoa khôn. Một
năm có bốn mùa. Bốn mùa cũng có bốn loại
hoa đặc trưng: Mai, Lan, Cúc, Trúc. Tuy nhiên, có lẽ Huệ là loài hoa đẹp nhất
chăng? Vì chính Chúa Giêsu đã dùng loài hoa này để so
sánh: “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế
nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi;
thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn,
dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng
một bông hoa ấy” (Mt 6:28-29; Lc 12:27). Ngài muốn chúng ta
tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Ai cũng thích hoa. Người ta trưng hoa và tặng hoa cho nhau vào
những dịp đặc biệt, dùng hoa để ngụ
ý điều mình muốn nói. Hoa là biểu
tượng của nhiều thứ, cốt yếu là niềm
vui và nỗi buồn.
Trong thi phẩm “Màu Tím Hoa Sim”, đã được
vài nhạc sĩ phổ nhạc, thi sĩ Hữu Loan khóc thương
người vợ trẻ:
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa...
Cây sim là loại cây mọc ở nhiều khu
rừng, hoa tím, lá vừa xanh vừa tím, trái nhỏ và cũng
có màu tím, ăn được. Cây thấp, thân cứng nhưng nhỏ, thường
chỉ cao khoảng 1m. Loại cây hoang dã
nhưng có gì đó rất lạ. Màu tím tượng
trưng cho nỗi buồn, mà nỗi buồn luôn thâm trầm,
kỳ ảo lắm.
Trong thi phẩm “Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím”,
cũng đã được vài nhạc sĩ phổ nhạc,
thi sĩ Kiên Giang:
Hoa trắng thôi cài trên áo tím
Mà cài trên nắp áo quan tài
Điểm tô công trận bằng hoa trắng
Hoa tuổi học trò, mờ thắm tươi
Xe tang đã khuất nẻo đời
Chuông nhà thờ khóc đưa người ngàn
thu!
Hoa tím buồn đã đành, hoa đỏ
cũng buồn không kém. Trong thi phẩm “Hai
Sắc Hoa Ti-gôn” (đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy,
số 179, 30-10-1937), cũng đã
được phổ nhạc, thi sĩ T.T.KH. thổ lộ nỗi lòng:
Buồn quá! hôm nay xem tiểu
thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim
tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!
...
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy
có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ
Tựa trái tim phai, tựa
máu hồng?
Cây Ti-gôn thân mềm, thường được
trồng leo bờ rào, hoa màu hồng đỏ,
có hình trái tim vỡ. Ẩn chứa điều
gì?
Hoa nào cũng buồn, buồn quá! Nhưng chính nỗi buồn mới làm người
ta “nhớ đời”, chứ niềm vui không được
người ta nhớ lâu. Tất cả như
một định mệnh rồi. Nhưng
có một loài hoa còn buồn hơn, đó là “Cánh Hoa Thời
Loạn”. Ns Y Vân cho biết: “Như cánh hoa trong thời
loạn ly, ai đem giông tố bao trùm thế hệ? Anh, nếu thương cho một đời hoa,
thì xin giữ yên quê nhà”. Trong chiến tranh,
không chỉ hoa buồn, mà mọi người và mọi thứ
đều buồn. Buồn vì nhiều nỗi,
nhất là nỗi sợ. Sợ gì?
Sợ chết! Dù lo sợ, nhưng “cánh hoa thời
loạn” vẫn đầy mơ ước: “…Những cánh
hoa hồng bên hàng dây kẽm hầm chông, vẫn mong bàn tay
người đem tưới vui trong vườn”.
Chắc hẳn ở đây tác
giả không nói về những cánh hoa bình thường, mà là
những cô gái – những đóa hoa sống động giữa
đời thường. Thật vậy, họ mơ
ước: “Như cánh hoa trong thời biển dâu, xin anh săn
sóc cho đời thắm màu. Ôi, nước
non chia lìa vì đâu? Nòng súng anh xây nhịp cầu”. Hòa bình
và tự do rất cần. Có hòa bình mới khả dĩ có tự
do. Có hòa bình mà không có tự do thì cũng vô ích, người
ta không thể vui sống mà tận hưởng hạnh phúc!
Có lẽ trong các loài hoa, Hoa Mắc
Cỡ là bình dị nhất. Cây Hoa Mắc Cỡ mọc
hoang khắp nơi, tại các khu đất sỏi đá ẩm
ướt, đất đỏ pha cát,
kể cả vùng đất cằn cỗi. Thân
thảo, nhiều chùm rễ thành cành, có nhiều lông tơ nhỏ,
nhiều gai nhỏ vàng mỡ gà, đầy gai nhọn, đâm
vào da thịt gây nhức và đôi khi lưu mũi gai dưới
da. Nhưng Hoa Mắc Cỡ không “ác ý”, không “dữ tợn”,
ai chạm khẽ vào là Hoa Mắc Cỡ liền e thẹn xếp
lá lại tỏ vẻ mắc cỡ như một trinh nữ.
Cây hoa dại này (thân, rễ, lá) có dược
tính an thần cao, dễ tạo cơn buồn
ngủ. Chỉ là một loài hoa dại nhưng Hoa Mắc Cỡ
được cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh gọi
tên bằng một mỹ từ: Hoa Trinh Nữ. Ông kể chuyện
bằng nhạc: “Qua một rừng hoang gió núi theo sang giũ
bụi đường trên vai, hái cây hoa dại lẻ loi bên
đường gọi hoa Trinh Nữ… Nâng nhẹ một cây
lá xếp trong tay lá ngủ thật mê say, ngỡ đôi mi dày
khép đêm trăng đầy cài then cung ái…”.
Ông mô tả thật khéo léo. Chắc hẳn
Hoa Mắc Cỡ là loài hoa rất lạ, lạ như các
trinh nữ vậy! Trinh nữ có một nhân đức là một
trong ba lời khấn của các tu sĩ Công giáo: Khiết tịnh.
Tháng Hoa. Chúng ta được
ngắm nhìn nhiều loại hoa nở rộ. Nhưng đó là những đóa hoa vô hồn.
Chúng ta còn được dịp ngắm nhìn một đóa
hoa đặc biệt nhất trong các đóa hoa sống động:
Hoa Thánh – Đức Trinh Nữ Maria. Một đóa Trinh Nữ
bình thường mà vĩ đại.
LỊCH SỬ
Ngược dòng lịch sử, chúng ta biết
được rằng, vào các thế kỷ đầu, mỗi
dịp Tháng Năm về, người Rôma có thói quen chào mừng
sự thức giấc sau mùa Đông của thiên nhiên bằng
việc tổ chức các ngày lễ suy tôn Hoa, vì hoa được
coi là Nữ Thần Mùa Xuân. Thấy hay, người
Công giáo tại các giáo xứ đã tổ chức các cuộc
rước kiệu hoa và cầu mùa. Người
ta đi cắt các cành cây xanh tươi có hoa nở
đưa về trang hoàng trong các nhà thờ, đặc biệt
là bàn thờ Đức Mẹ. Người ta gọi đó
là “cuộc rước xanh”.
Thế kỷ XIV, Lm Henri Suzo (dòng Đaminh) đã
tổ chức các buổi đặc biệt tôn kính Đức
Mẹ vào ngày đầu Tháng Năm, và trang hoàng hoa quanh tượng
Đức Mẹ. Thánh Philipe Nêri thích tập họp trẻ
em xung quanh bàn thờ Đức Mẹ vào ngày 1 tháng 5 để
dâng các bông hoa mùa Xuân cho Đức Mẹ. Thói quen tốt lành
này đã ăn sâu vào tâm hồn đơn sơ của các
em, và vẫn được duy trì khi chúng lớn khôn.
Đầu thế kỷ XVII, tại Napoli (Ý),
trong thánh đường Thánh Clara của các nữ tu Dòng
Phanxicô, Tháng Đức Mẹ được cử hành
chung: Mỗi chiều đều có buổi hát kính Đức
Mẹ và chầu Thánh Thể. Từ đó, Tháng Đức
Mẹ nhanh chóng lan rộng khắp các giáo xứ. Năm 1654, Lm Nadasi (dòng Tên) cho xuất bản một
tập sách nhỏ với đề nghị nên dành riêng mỗi
năm một tháng để tôn kính Mẹ Thiên Chúa.
Đầu thế kỷ XIX, các giáo xứ trong
Giáo Hội đều long trọng tổ chức tháng kính Đức
Mẹ. Các nhà thờ chính có linh mục giảng thuyết, và
hầu như người ta dùng thời gian tôn kính Đức
Mẹ vào ngay sau Mùa Chay. Trong Thông điệp “Đấng
Trung Gian Thiên Chúa” (Mediator Dei, 20-11-1947), Thánh GH Piô XII nói: “Việc
tôn kính Đức Mẹ trong Tháng Năm là việc đạo
đức được thêm vào nghi thức Phụng Vụ,
được Giáo Hội công nhận và cổ võ”.
Trong Thông điệp “Tháng Năm” (Mense Maio, 29-4-1965),
số 1, ĐGH Phaolô VI viết: “Tháng Năm là tháng mà lòng đạo
đức của giáo dân kính dâng Đức Mẹ cách riêng.
Đó là dịp để bày tỏ niềm
tin và lòng mến mà người Công giáo khắp thế giới
dành cho Đức Mẹ, Nữ Vương Thiên Đàng”.
Thật vậy, vì Đức Mẹ là Đấng trung chuyển
các ân sủng của Thiên Chúa.
Trong sách Tháng Đức Bà (NXB Hiện Tại,
1969, trang 10), có ghi lại câu chuyện này:
Ở thành phố Nanxêniô (Pháp), có
một gia đình trung lưu. Vợ
đạo đức, chồng hiền lành nhưng khô khan.
Vợ luôn cầu xin Chúa mở lòng cho chồng
sửa mình, nhưng chồng vẫn cứng lòng.
Năm ấy, đầu Tháng Hoa Đức Mẹ,
bà sửa sang bàn thờ để mẹ con bà làm việc kính
Đức Mẹ. Người chồng bận việc làm ăn
xa, ít khi ở nhà, mà dù ông ở nhà thì ông cũng không bao giờ
cầu nguyện chung với vợ con. Ngày lễ
nghỉ, không bận việc làm thì ông cũng đi chơi
cả ngày, nhưng có điều là khi về nhà, bao giờ
ông cũng kiếm mấy bông hoa để dâng Đức Mẹ.
Ngày 15-6 năm ấy, ông chết
bất thình lình, không kịp lãnh nhận các phép. Bà vợ thấy chồng chết như vậy thì
buồn lắm, rồi sinh bệnh nặng, phải đi điều
trị ở xa. Khi đi qua làng Ars, bà vào
nhà xứ trình bày tâm sự cùng cha xứ – tức là Thánh LM
Gioan Vianney ngày nay. Ngài là người đạo
đức nổi tiếng, được mọi người
xem là vị thánh sống. Bà vừa tới nơi, chưa
kịp nói điều gì, cha Gioan liền bảo:
– Đừng lo cho linh hồn chồng
bà. Chắc bà còn nhớ những bông hoa ông
vẫn đem về cho mẹ con bà dâng cho Đức Mẹ
trong Tháng Hoa vừa rồi chứ?
Nghe cha nói vậy, bà hết sức
kinh ngạc, vì bà chưa hề nói với ai về những
bông hoa ấy. Nếu Chúa không soi cho cha, lẽ
nào người biết được? Rồi cha sở
nói thêm:
– Nhờ lời bà cầu nguyện và những
việc lành ông ấy đã làm để tôn kính Đức
Mẹ, Chúa đã thương cho ông ấy được ăn
năn tội cách trọn trong giờ chết.
Ông ấy đã thoát khỏi hỏa ngục,
nhưng còn bị giam trong luyện ngục. Xin bà dâng lễ, cầu nguyện, làm việc lành
thêm để cầu cho ông chóng ra khỏi nơi đền
tội nóng nảy mà lên Thiên Đàng.
Nghe xong, bà hết sức vui mừng
và hết lòng tạ ơn Đức Mẹ.
Quả thật, Thiên Chúa giàu lòng
thương xót và luôn nhân từ. Mẹ Thiên
Chúa cũng rất nhân hậu. Thánh GM Anphong Ligôri xác quyết:
“Nếu tôi thật lòng yêu mến Mẹ, chắc chắn tôi
được lên Thiên Đàng”. Còn Thánh Bênađô nói: “Được
Đức Mẹ dẫn dắt, bạn sẽ không bị ngã.
Được Đức Mẹ che chở, bạn
sẽ không lo sợ. Được Đức Mẹ
hướng dẫn, bạn sẽ được an lòng. Được Đức
Mẹ ban ơn, bạn sẽ đạt tới đích mà bạn
mong chờ”. Thật là hạnh phúc nếu chúng ta luôn
biết bám vào Đức Mẹ. Có Mẹ là có tất cả!
Như bạn đã biết, Đức
Mẹ là thụ tạo đặc biệt của Thiên Chúa.
Vì thế, các tôn giáo khác cũng luôn đề cao
Đức Mẹ.
Tháng 12-2003, Đức Mẹ xuất
hiện trên bìa 3 tạp chí lớn của Tin lành với hơn
500.000 bản. Các bài viết ở cả 3 tạp chí kia
đều đồng ý rằng các tín đồ Tin lành đã
không chú ý Đức Mẹ quá lâu, và đó là đỉnh điểm
để các tín đồ Tin lành tái nhận biết vị
trí của Đức Mẹ trong đạo Tin lành. Thật vậy, càng ngày càng có nhiều người
ngoài Công giáo bắt đầu phát hiện vị trí của
Đức Mẹ trong tôn giáo của mình.
Nhiều sách về Đức Mẹ đã
được các học giả Tin lành viết, nhiều
cuốn cổ vũ người Tin lành nhìn sát hơn vào Đức
Mẹ. Nhiều câu chuyện về các Phật tử và những
người ngoài Công giáo đã đến viếng Đền
Đức Mẹ Lộ Đức. Mặt khác, các tín đồ
Hồi giáo cũng rất tôn trọng Đức Mẹ. Thật
vậy, Đức Mẹ được nói đến nhiều
lần trong kinh Koran, sách thánh của Hồi giáo, nhiều hơn
cả trong Kinh thánh!
Đức Mẹ là chủ đề trong nhiều
cuộc thảo luận đại kết – những cuộc
thảo luận giữa các thần học gia Công giáo, các học
giả Tin lành, Hồi giáo, và các tôn giáo khác với mục đích
tìm ra những “điểm chung” giữa các tôn giáo. Tháng 6-2001,
sau khi trở về từ hội nghị liên tôn được
tổ chức tại Lộ Đức, ĐHY Francis Arinze,
lúc đó là chủ tịch Hội đồng Đối
thoại Liên tôn, nói rằng Đức Mẹ là khởi điểm
để giới thiệu sứ điệp Kitô giáo cho các
tín đồ của các tôn giáo khác. Các tham dự viên hội
nghị này là các đại biểu Công giáo, Chính Thống giáo,
Anh giáo, Tin Lành Lutheran và các thần học gia. ĐHY Arinze giải
thích: “Chúng ta phải tạ ơn Chúa về ý nghĩa tích cực
về Mẹ Maria đối với các tôn giáo khác”.
ĐỨC MẸ VÀ HỒI GIÁO
Nhiều người Công giáo không
biết rằng Đức Mẹ rất được các
tín đồ Hồi giáo yêu mến và tôn kính. Đức Mẹ là phụ nữ duy nhất được
nhắc tên 34 lần trong kinh Koran – hơn cả số lần
trong Kinh Thánh. Có cả một chương
“Mẹ Maria”, và được các tín đồ Hồi giáo
diễn tả là chương hay nhất trong toàn bộ kinh
Koran. Chương III trong kinh Koran là chương Imran, theo tên của Thân phụ Đức Mẹ.
Kinh Koran nói về việc Đức Mẹ dâng
mình trong Đền thờ Giêrusalem, lễ tẩy trần,
cuộc truyền tin, sự trinh thai và việc
sinh Chúa Giêsu. Đức Mẹ được Hồi giáo nhận
biết và tôn kính là người được thánh hóa và cao
trọng nhất trong các phụ nữ, và là sự hoàn hảo
tâm linh: “Các thiên thần nói: Lạy Mẹ Maria! Thiên Chúa đã chọn Mẹ và thanh tẩy Mẹ
– chọn Mẹ hơn hẳn các phụ nữ ở mọi
quốc gia. Lạy mẹ Maria! Xin thờ
lạy Thiên Chúa: Xin phủ phục, và quỳ gối (khi cầu
nguyện) với những người cùng quỳ gối” (Koran
3:42-43).
Thật vậy, điều ngạc nhiên đối
với nhiều người Công giáo là Hồi giáo chấp
nhận “sự đồng trinh trọn đời” của
Đức Mẹ, gián tiếp có nghĩa là Vô nhiễm Nguyên
tội – hai tín điều chính về Đức Mẹ. Trong
kinh Koran, Đức Mẹ được nhận biết
là thụ tạo duy nhất không mắc Tội Tổ Tông từ
trước khi làm người, được giữ khỏi
mọi tội suốt cả đời. Chúng ta đọc
lời cầu nguyện của Đức Mẹ trong kinh
Koran: “Lạy Chúa, con dấn thân phục vụ Ngài từ trong
lòng con. Xin Ngài thương nhận. Chỉ mình Ngài lắng nghe và thấu suốt mọi
sự”. Và khi Đức Mẹ sinh Chúa Con, Đức
Mẹ nói: “Lạy Chúa, con được gọi là mẹ của
Người. Xin bảo vệ con và con cháu khỏi
Satan... và xin Con Chúa chấp nhận con” (Koran 3:35-37).
Ở phần khác, kinh Koran nói: “Thiên thần nói:
Hỡi Cô Maria, Allah đã chọn Cô và thanh tẩy Cô. Ngài đã chọn Cô hơn hẳn các phụ nữ
khác. Hỡi Cô Maria, hãy tận hiến cho
Thiên Chúa” (Koran 3: 42-43). Kinh Koran nói về sự đồng trinh
của Đức Mẹ: “Đối với các tín hữu,
Thiên Chúa thiết lập một tấm gương... Maria... người đã giữ mình đồng
trinh và nơi cung lòng ấy, chúng ta hít thở Chúa Thánh Thần;
Đấng đã làm Mẹ tin Lời Chúa và Kinh Thánh, đồng
thời rất đạo hạnh” (Koran 66:11-12).
ĐỨC MẸ VÀ TIN LÀNH
Martin Luther đặt vấn đề và xác định:
“Đức Kitô có là người duy nhất được
tôn thờ? Hoặc Mẹ Thiên Chúa không được
tôn kính? Đây là phụ nữ đã đạp đầu
con rắn. Hãy nghe chúng tôi. Vì
Chúa Con không từ chối điều gì”. Ông Martin Luther là nhà cải cách Tin Lành hồi thế
kỷ XVI, thành lập phong trào Tin Lành và ly khai với Công giáo.
Đó là câu nói trong bài giảng cuối cùng của
Luther tại Wittenberg hồi tháng 1-1546, vài tháng trước khi ông qua đời.
Điều đó cho thấy rằng ông Luther tôn sùng Đức
Mẹ cả đời.
Càng ngày càng có nhiều học giả Tin Lành
xuất bản các phát hiện của họ về lòng sùng
kính Đức Mẹ của những người thành lập
đạo Tin Lành – Martin Luther, John Calvin, và Ulrich Zwingli. Trong
ba người này, Martin Luther là người sùng kính Đức
Mẹ nhất và đức tin của họ vẫn phù hợp
với giáo lý Công giáo – một tiếng kêu từ việc kết
án gay gắt về những gì liên quan Đức Mẹ nơi
nhiều người Tin Lành chính thống và các Kitô hữu Tái
sinh ngày nay. Các tín đồ Tin Lành đã bị bỏ lại
phía sau về việc dạy rằng bất kỳ điều
gì liên quan Đức Mẹ đều ngược với
Tin Lành, và bất cứ điều gì liên quan Đức Mẹ
đều làm giảm việc tôn thờ Đức Kitô. Nhưng có bằng chứng đủ để nói
rằng các nhà cải cách Tin Lành không bao giờ có ý “chống
Đức Mẹ”.
Nhiều học giả Tin Lành đồng ý rằng
Martin Luther sùng kính Đức Mẹ cả đời, cũng
như niềm tin của ông trong các giáo huấn chính yếu
về Đức Mẹ. Thật vậy, Martin Luther tin mọi
giáo lý về Đức Mẹ – Mẹ Thiên Chúa, trọn đời
đồng trinh, lên trời, và ngay cả việc Vô Nhiễm
Nguyên Tội.
Chính Luther đã viết và tin Đức
Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội – 300 năm trước khi Giáo
hội Công giáo chính thức tuyên bố tín điều này vào
năm 1854. Đây là cách hiểu của Luther về Vô Nhiễm
Nguyên Tội: “Nhưng quan niệm khác, nghĩa là sự truyền
thụ của linh hồn, đó là điều được
tin thích hợp và đạo đức, là không có tội, để
khi linh hồn được truyền thụ, Đức
Mẹ cũng được tẩy sạch khỏi tội
nguyên tổ và được trang điểm bằng những
Ơn Chúa để nhận linh hồn thánh thiện đã
được truyền thụ. Như vậy, trong chính lúc
bắt đầu sống thì Đức Mẹ đã không
nhiễm tội…”.
Trong cuốn “Against the Roman Papacy: An Institution
of the Devil” (Chống Lại Giáo Hoàng Rôma: Tổ Chức của
Ma Quỷ), xuất bản năm 1545 (một năm trước
khi qua đời), Luther đã nói: “… Đức
Maria đồng trinh, không nhiễm tội và không thể phạm
tội mãi mãi”. Như vậy, ngay lúc bị
coi là chống lại giáo hoàng, Luther vẫn không bào giờ lung
lay niềm tin về vấn đề Vô Nhiễm Nguyên Tội
của Đức Mẹ.
Một số học giả nổi bật của
Tin Lành cũng đồng ý rằng cả đời ông
Luther vẫn tin Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Trong
số các học giả đó là Arthur Carl Piepkorn, Eric Gritsch,
Jaroslav Pelikan, kể cả 11 học giả theo Tin Lành
Lutheran thuộc Ủy ban Đối thoại Tin Lành Lutheran
và Công giáo (Lutheran-Catholic Dialogue Committee).
Về vấn đề Đức
Mẹ lên trời cũng tương tự, tín điều
được công bố trong thế kỷ XX, nhưng từ
thế kỷ XVI, Luther đã tin là “tư tưởng đạo
hạnh và vui lòng”. Về thiên chức Mẹ Thiên Chúa,
Luther viết: “Đức Mẹ được mời gọi
không chỉ là Mẹ của nhân loại, mà còn là Mẹ của
Thiên Chúa… Chắc chắn Mẹ Maria là Mẹ Thiên
Chúa thật”.
Về niềm tin cả đời ông Luther đối
với sự đồng trinh trọn đời của Đức
Mẹ, ông viết: “Vấn đề đức tin là Đức
Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và vẫn đồng trinh”. Khác với Martin Luther, John Calvin không khen Đức
Mẹ như Martin Luther, dù ông không phủ nhận tầm
quan trọng và sự nổi trội của Đức Mẹ
trong lĩnh vực đức tin. Cũng như Martin
Luther, John Calvin tin Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và trọn
đời đồng trinh: “Bà Êlidabét gọi Maria là mẹ Thiên
Chúa, vì sự duy nhất của con người có hai bản
tính của Đức Kitô, Đức Mẹ có thể nói rằng
con người hay chết được tạo nên trong
cung lòng Đức Mẹ cũng là Thiên Chúa vĩnh hằng”.
Ông Calvin nói về Đức Mẹ: “Không thể
phủ nhận việc Thiên Chúa đã chọn và tiền định
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa Ngôi Con, và được
ban cho sự kính trọng cao nhất. Tới ngày nay, chúng ta
không thể hưởng phúc lành nơi Đức Kitô nếu
không nghĩ đồng thời Thiên Chúa đã ban cho Đức
Mẹ sự cao trọng, theo ý của Đức Mẹ chấp
nhận là Mẹ của Con Một Thiên Chúa”.
Tài liệu của Ulrich Zwingli ghi lại lời
của ông Calvin: “Tôi đánh giá cao Mẹ Thiên Chúa, trọn đời
đồng trinh và vô nhiễm nguyên tội. Thật
thích hợp khi Chúa Con nên có một Người Mẹ Thánh.
Loài người càng tôn thờ và yêu mến Chúa
Kitô thì càng nên tôn kính và yêu mến Đức Mẹ”.
Như vậy, sùng kính Đức
Mẹ là phần cơ bản của Tin Lành. Các Giáo hội
Tin Lành Lutheran vẫn giữ ảnh tượng Đức
Mẹ, nhưng hạn chế sùng kính Đức Mẹ (như
kinh Ave Maria và Magnificat), dù ông Luther qua đời cả 100 năm
sau. Giáo hội Lutheran dạy đề cao Đức
Mẹ đồng trinh là mẫu gương nhân đức
của các Kitô hữu.
Việc sắp xếp các “yếu tố ẩn
giấu” này về lòng sùng kính Đức Mẹ và tinh thần
của những người sáng lập Tin Lành có thể là lý
do để mới đây có nhiều sách của Tin Lành kêu
gọi tái khám phá Đức Mẹ. Một học giả Tin
Lành còn “đi xa” hơn và nói rằng: “Đã đến lúc
người Tin Lành trở về nhà”.
ĐỨC MẸ VÀ CÁC QUỐC GIA
Có thể ngày đó không bao giờ
đến khi nhiều tôn giáo sẽ phá bỏ các rào chắn
giáo lý kết hợp. Các bất đồng
cơ bản về các giáo huấn chủ yếu sẽ có thể
không bao giờ được vượt qua. Chẳng
hạn, người Công giáo sẽ không bao giờ thỏa
hiệp việc tin có Thiên tính của Chúa Giêsu Kitô, còn Hồi
giáo sẽ không bao giờ nâng cao thân phận của Chúa Giêsu
khỏi vị trí chỉ là một “tiên tri vĩ đại”
của Thiên Chúa.
Nhưng có thể có một mẫu số chung giữa các tôn giáo để có thể là nền
tảng của cuộc đối thoại lâu dài vào một
ngày nào đó, để tạo sự kết hợp giữa
các tôn giáo mà chúng ta thấy ngày nay. Đức
Mẹ là “Đức Mẹ của mọi quốc gia” (Lady
of All Nations).
Hồi giáo duy trì việc đánh
giá cao và tuyên bố Đức Mẹ là người cao trọng
nhất. Tin Lành bắt đầu nhận
biết vị trí của Đức Mẹ trong tôn giáo của
họ. Thậm chí có người của các tôn giáo không
độc thần như Phật giáo cũng đang coi Đức
Mẹ là chứng cớ đã được các Phật tử
tường trình tại Đền Đức Mẹ Lộ
Đức. Tại các hội nghị đại kết liên
tôn, Đức Mẹ càng ngày càng là khởi điểm của
việc đối thoại. Đức Mẹ đã vượt
qua mọi rào cản giáo lý, là ánh sáng soi vào nơi thâm sâu nhất
và tối tăm nhất của bóng tối. Đức
Mẹ là dấu hiệu của sự kết hợp, không
bao giờ chia rẽ chúng ta.
Thật vậy, dù tôn giáo nào hoặc giáo phái nào,
mọi người đều thấy dễ chấp nhận
là “Người Mẹ tốt nhất trong lịch sử” –
đạo hạnh nhất, kính sợ Chúa nhất, mạnh
mẽ nhất, và sùng kính nhất. Điều này chính xác vì
“cương vị làm mẹ” của Đức Maria mà Mẹ
có thể được gọi là “Mẹ của Các Dân Tộc”,
Người Mẹ đã được Đức Kitô trao
ban cho nhân loại, khi Ngài bị treo trên Thập giá: “Đây
là mẹ của con” (Ga 19:27).
Có lần ông Luther nói: “Việc tôn kính Đức
Maria được khắc ghi sâu đậm trong trái tim con người”. Ý nghĩa của các từ
ngữ mà ông Luther đã dùng rõ ràng: Trong sâu thẳm của mọi
tâm hồn, dù tôn giáo nào hoặc dù dân tộc nào, đều được
ghi khắc sự khao khát tự nhiên và tình yêu tự nhiên đối
với Người Mẹ của các quốc gia, một ngày
nào đó, nhờ lời cầu nguyện của chúng ta, sẽ
quy tụ mọi con cái dưới bóng Mẹ.
Ngày xưa, Vãn Hoa mang tâm tình con thảo và khiêm
nhường:
Chúng con mọn mạy phàm hèn
Dám đâu ghé mắt trông lên bàn thờ
Ngửa xin tràn xuống ơn thừa
Rộng ban giãi tấm lòng thơ trước
toà
Ước gì trong Tháng Hoa này, mỗi chúng ta cũng
biết “Nhờ Mẹ Đến Với Chúa Giêsu – Ad Jesum Per Mariam”, biết dâng những đóa hoa lòng để
tôn kính Đức Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ
không bao giờ quên chúng ta đâu!
Tháng Năm lại về, với tâm tình con thảo,
chúng ta cùng tận hiến cuộc đời mình cho Đức
Mẹ: “Con hoàn toàn thuộc về Mẹ, mọi sự của
con đều là của Mẹ. Con xin dâng Mẹ tất cả
mọi sự của con. Lạy Mẹ Maria, xin ban cho con trái
tim của Mẹ – Totus tuus ego sum, et omnia
mea tua sunt. Accipio te in mea omnia. Praebe mihi cor tuum, Maria”.
TRẦM THIÊN THU
|