Cái chết giúp sự thật
hiển lộ
(Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Sau
ba năm Đức Giêsu rao giảng, không ít người
đã tin vào Ngài; tuy nhiên niềm tin vào Đức Giêsu
của những người này tối đa cũng
tương tự như niềm tin của các tông
đồ khi Đức Giêsu còn sống đời
dương thế. Họ cho rằng Đức Giêsu là
một vị thầy, hơn nữa có thể là một
tiên tri, và cao nhất có thể là Đấng Kitô Vua (Ga.6, 15;
Mc.8, 29; 11, 9-10). Vào thời điểm đó, người
ta không thể biết khác hơn được. Còn
đối với những người không tin Đức
Giêsu, những kẻ khó chịu hoặc bực tức vì
Ngài trổi trang hơn họ, Đức Giêsu đơn
thuần chỉ là một con người bình thường
như bao người. Những người này không chỉ
bất đồng ý kiến với Đức Giêsu, không
chỉ khó chịu và bực tức mà còn muốn giết
Đức Giêsu nữa (Mc.3, 6).
Vào
thời cuối của ba năm rao giảng, Đức
Giêsu đã nhiều lần nói những điều có
thể làm cho Ngài phải bị ném đá. Chẳng hạn
Ngài nói Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 5.7), Ngài có
trước Abraham (Ga.8, 57-58), Ngài và Thiên Chúa là một (Ga.10,
30). Vào cuối đời, Ngài có những câu nói “gây mất
lòng” nhiều người. Càng vào cuối đời, càng có
ít người theo Ngài, vì những lời khó có thể
hiểu và chấp nhận được, chẳng
hạn: “chính tôi là bánh hằng sống. Ai đến
với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng
khát bao giờ!” (Ga.6. 35). Những lời nói tương
tự không chỉ làm Đức Giêsu “mất người”
mà còn gây thêm có nhiều người thù địch với
Ngài, thậm chí còn làm cho những người muốn
giết Ngài có đủ bằng cớ và hậu thuẫn.
Chẳng hạn, Ngài nhận mình là Thiên Chúa: “chúng tôi ném
đá ông, không phải vì một việc tốt đẹp
nhưng vì một lời phạm thượng: ông là
người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa” (Ga.10,
33).
Gần
lễ Vượt Qua, âm mưu giết Đức Giêsu trở
nên rõ ràng nên Ngài lui về Galilê. Vì thế, thời
điểm Lazarô chết không có mặt Đức Giêsu
tại đó. Sau đó khi Ngài muốn lên Giêrusalem thì các tông
đồ đã ngăn cản. Tông đồ Thomas đã
động viên các bạn: “nào chúng ta cùng lên Yerusalem
để cùng chết với thầy” (Ga.11, 16). Đức
Giêsu cũng biết Ngài sẽ bị giết nếu Ngài lên
Giêrusalem vào thời điểm này, tuy nhiên Ngài vẫn
cứ lên. Ngài không muốn trốn chạy cái chết. Ngài
đã phải chọn lựa giữa sống và chết
một cách cụ thể qua việc có lên Giêrusalem dịp
lễ Vượt Qua này hay không. Cuối cùng Ngài đã
chọn lên Giêrusalem cho dù cái chết đang chờ đón
Ngài.
Ở
Giêrusalem, Ngài vẫn làm điều Ngài vẫn thường
làm: “ban ngày Ngài giảng dạy trong đền thờ, còn
ban đêm Ngài và các tông đồ ra vườn dầu
để ngủ” (Lc.21, 37). Hôm nay Ngài vào Giêrusalem và
được dân chúng đón rước như vị Thiên
Sai. Ngài chấp nhận biến cố này vì biết
thời điểm đặc biệt của Ngài đã đến:
thời điểm Ngài được tôn vinh cũng là
thời điểm Ngài chết trên thập giá. Cái chết
của Ngài có thể được thấy trước vì
nó cũng theo quy luật của xã hội: người ta
ghét Ngài đến độ muốn giết Ngài (Mc.14, 1).
Lúc
khởi đầu người ta muốn giết Ngài vì
Ngài đã dám suy nghĩ và nói ngược lại những
người có thế lực (Mc.3, 6; 14, 1; 14, 53-59); nhưng
khi vị thượng tế hỏi Đức Giêsu và
Đức Giêsu trả lời: “rồi các ông sẽ
thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn
Năng và đến trên mây trời” thì họ không cần
phải sắp đặt chứng cớ để
giết Đức Giêsu như trước nữa, vì
Đức Giêsu đã phạm một tội vô cùng lớn
mà mọi người Do Thái một khi biết đều
phải xử tử Đức Giêsu, vì là người mà
dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa (Mc.14, 62-64). Đức
Giêsu đầu tiên bị người ta ghen ghét mà muốn
giết, rồi khi đã bị bắt và xét xử với
chứng cớ được xếp đặt
trước, Ngài lại nói Ngài ngang hàng với Thiên Chúa;
như vậy trước công nghị Do Thái, Đức
Giêsu bị kết án tử hình vì tội tôn giáo: lộng
ngôn xúc phạm đến Thiên Chúa. Trên thập giá
Đức Giêsu nói: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm
chẳng biết” (Lc.23, 34); thật vậy, không biết
nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu, thì
kết án Ngài là chuyện tất nhiên.
Để
giết được Đức Giêsu một cách hợp
pháp, người Do Thái phải đem Đức Giêsu sang
tòa Roma. Vào thời người Do Thái bị đô hộ,
quyền xử tử thuộc về thẩm quyền
người Roma. Đức Giêsu đã bị gán cho tội
chính trị “xưng vương”. Nếu không gán cho
Đức Giêsu tội chính trị thì Philatô đã không
kết án tử hình Đức Giêsu. Philatô biết
Đức Giêsu bị oan, nhưng vì sợ mất chức
nên đã kết án Ngài. Nếu
không kết án Đức Giêsu, Philatô có thể bị
người Do Thái tố cáo với hoàng đế Roma vì
đã buông tha người xưng vua phất cờ khởi
nghĩa. Nếu vậy, Philatô phải giải thích,
phải biện luận, và sẽ gặp nhiều phiền
phức, và hậu quả sẽ là không được hoàng
đế tin tưởng nữa, vì vậy Philatô đã
kết án tử hình Đức Giêsu thuận theo ý của
người Do Thái.
Nếu
Đức Giêsu chỉ là một con người,
Đức Giêsu xứng đáng lãnh án tử. Thực
vậy, khi Đức Giêsu còn sống, nào ai biết
Đức Giêsu là người có nguồn gốc thần
linh, vì đâu là chứng cớ để người ta có
thể tin như vậy! Chỉ khi Đức Giêsu chết
và sống lại, người ta mới nhận ra những
gì Đức Giêsu nói và cho mình là, là chân thực. Như
vậy, chỉ sau biến cố Đức Giêsu Phục
Sinh, các tông đồ mới biết chân tướng
của Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu là kẻ
lộng ngôn phạm thượng, thì Thiên Chúa đã
chẳng phục sinh Ngài, còn nếu Ngài đã sống
lại, nghĩa là những điều Ngài đã nói là
đúng, là chân lý. Nghĩa là, Ngài và Thiên Chúa là một, Ngài
ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài có trước Abraham.
Khi
còn sống đời dương thế, Đức Giêsu
khó có thể thoát chết, vì chân tướng của Ngài
chỉ có thể được thấy rõ sau khi Ngài
sống lại. Đức Giêsu bị hiểu lầm mà
bị kết án tử hình, vì không ai biết Thiên Chúa là Ba
Ngôi Vị, vì không ai có thể tưởng rằng Thiên Chúa
có thể nhập thể làm người. Sau khi Ngài sống
lại, với ơn của Thánh Thần, các tông đồ
nhận ra ý nghĩa của những lời Ngài đã nói mà
khi Ngài còn đang sống các ông chẳng hiểu gì. Ngài là
Đấng có nguồn gốc thần linh, Ngài ngự bên
hữu Thiên Chúa, Ngài và Cha là một, Ngài là Ngôi Lời Thiên
Chúa nhập thể, Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn tại sao
người ta giết Đức Giêsu?
2. Có cách nào giúp Đức Giêsu
thoát chết không? Tại sao Đức Giêsu không dùng nó?
|