Dõi
Theo Cuộc Thương Khó Của Chúa Giêsu
Suy niệm Lễ Lá
(Lc 22, 14-23, 56)
Khi Chúa vào Thành Thánh
Chúa Giêsu muốn tất cả thật đơn giản,
nhưng giầu ý nghĩa về tính thiên sai. Trái lại,
đám đông từ Galilêa đến dự lễ Vượt
Qua lại vui mừng phấn khởi. Chúa Giêsu tiến vào
Thành Thánh, đám đông và đoàn môn đệ cất tiếng
ngợi ca : "Chúc tụng
Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời và
vinh quang trên các tầng trời", làm cho chúng ta nhớ
lại lời thiên thần đã hát trong đêm Giáng sinh :
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời
và bình an dưới thế cho người thiện tâm"
(Lc 2, 14).
Sự nhiệt tình của đám đông gặp phải
sự chỉ trích của một số người Biệt
Phái. Chúa Giêsu chấp nhận sự nhiệt tình này bởi
nó phát xuất từ trái tim, cho dù có phù du đi chăng nữa
(x. Lc 19,39-40).
Một ngôn ngữ loài người
Toàn bộ sứ mạng của Người Tôi Tớ
Đau Khổ được Isaia tóm lại: lắng nghe
để huấn luyện, huấn luyện để loan
báo : "Người thức tỉnh
tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn … Chúa
đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn
luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ
kẻ nhọc nhằn" (x. Is 50, 4-7). Thật dễ
để mà nói, "tôi đã
không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo
cười và những người phỉ nhổ tôi"
(Is 50, 6), nhưng không dễ để mà sống. Vì thế,
ta phải không ngừng lắng nghe Thiên Chúa, để Thiên
Chúa huấn luyện ta bằng ngôn ngữ loài người,
để tloan báo Thiên Chúa cho anh em.
Người đã không lấy lại
Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, chia sẻ tất cả
vinh quang của loài người và vinh quang Thiên Chúa :
"Đã trở nên giống
như loài người, với cách thức bề ngoài
như một người phàm" (Pl 2,7). Là con
người, một tạo vật có giới hạn trong
thời gian, gắn liền với khổ đau, ngược
đãi và bị giết chết. Trử nên giống phàm
nhân, ngoại trừ tội lỗi, dù là Đấng vô tội,
Chúa Giêsu đã khước từ vinh quang của Con Thiên
Chúa và trở thành Con của loài người, để hoàn
toàn liên đới với chúng ta là những người tội
lỗi. Không những thế, Người đã sống giữa
chúng ta trong một "điều kiện của nô lệ":
không phải như là vua, cũng không phải là ông hoàng,
nhưng là nô lệ. Vì thế Người đã hạ mình,
và vực thẳm sự hạ mình của Người, mà
Tuần Thánh cho chúng ta thấy, xem ra không có đáy, "vâng lời cho đến chết"
(Pl 2,8), đành mất tất cả để có
được vinh quang trở về với Thiên Chúa.
Khởi đầu chặng
Đàng Thánh Giá
Thánh lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh như là điểm
khởi đầu con đường thập giá, chứ
không phải vườn Cây Dầu. Bởi vì con đường
này chính là Vương Quốc. Đây là nét đặc
trưng của bài Thương Khó theo Tin Mừng Luca.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Cho đến
khi triều đại Thiên Chúa đến, vương quốc
của Thiên Chúa". Và đối với những người
bị kết án trên thập giá cùng Chúa Giêsu, Nước
Thiên Chúa đến ngay lập tức, người trộm
lành hỏi : "Lạy
Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến
tôi ?" (Lc 23, 43) Chúa Giêsu trả lời : " Ngay hôm nay... " (Lc 23, 43).
Thánh Thể thực hiện hy tế của Thiên Chúa và
ban tặng cho chúng ta những quả phúc tuyệt vời
ngay tức khắc. Mỗi khi cử hành, chúng ta thưa :
"Xin đoái nhìn hiến lễ
Hội Thánh dâng lên Chúa và khi Chúa nhận đây chính là của
lễ Con Cha đã dâng tiến" (Kinh Nguyện Thánh Thể
III) Chúa Giêsu nói với các môn đệ : "Chén này là Tân ước trong Máu Ta"
(Lc 22,20).
Trong vườn Giệtsimani
Trong thư gửi tín hữu Do thái Chúa Giêsu nói : "Con đến để làm theo Ý
Cha" (Dt 10,9-10) lấy lại những lời Thánh Vịnh
(Tv 39, 8). Nhưng lời đó vẫn tiếp tục và
đặt chúng ta vào trong lễ dâng hiến của Chúa Kitô.
Chính trong ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã dâng hiến chính thân mình làm
của lễ để cứu chuộc chúng ta.
Có lần chúng ta bước trượt, lúc đó bàn tay
ta không có gì để nắm. Có lúc trái tim ta bồi hồi
trong ta, cuộc sống mất đi ý nghĩa, khi tình yêu
tan rã, tâm trí chúng ta mất hướng. Chúa biết rằng
trong vườn cây Dầu, có các môn đệ ở gần,
Người vẫn cảm thấy cô đơn : "Tại sao các con ngủ?"
(Lc 22, 46).
Nhưng sự cô đơn không phủ kín trên Người,
mà đưa Người đến với lễ vật tự
hiến phổ quát. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê
"Để mọi miệng
lưỡi phải tuyên xưng" ((Pl 2, 11). Chúng
ta phải ra khỏi chính mình, vượt ra ngoài bóng đêm
để tìm kiếm Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn,
tìm ánh sáng của Ngài.
Chối Chúa
Hầu như tất cả các môn đệ khác trốn
chạy và bỏ rơi Thày, còn Phêrô với thanh gươm
cầm sẵn trong tay, tin tưởng vào sức riêng mình,
ông dồn sức lực vào sự nhiệt tình với Chúa.
Giờ đây ông tìm lại chính mình. Ông biết rõ người
mà tên đầy tớ nữ hỏi ông, nhưng ông vẫn
nói : "Này chị, tôi
đâu quen biết người ấy" (Lc 22,57).
Con gà là con vật không màng chi đến giờ giấc,
vào thời điểm đó đã cất tiếng gáy. Phêrô
sau khi chối Chúa, quay lại nhìn Chúa Giêsu, ông sợ hãi. Lúc
này, Chúa không đến nắm lấy tay Phêrô như ngày ông
bị chìm trên biển khi đang đến cùng Chúa. Với
cái nhìn yêu thương, giờ đây Chúa Giêsu nhắc nhở
Phêrô, ông quay lại và nhìn Chúa, cái nhìn lén lút, gặp ánh mắt
"yêu thương", ông
sực nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với ông :
"Khi gà chưa gáy, con
đã chối ta ba lần" (Lc 22, 61).
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu nhìn chúng ta, cho chúng ta tính xác
thực của tình yêu thương xót vượt trên sự
yếu hèn của chúng ta.
Các ông nói, quan nói
Trước Công Nghị, giới lãnh đạo Do thái hỏi
Chúa Giêsu xem có phải Người là Đức Kitô
không ? Chúa Giêsu trả lời : "Nếu Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu
tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời"
(Lc 22, 67-68). Người buộc họ lên tiếng :
"Vậy ông là Con Thiên Chúa
ư ?" Chúa Giêsu đáp : "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa" (Lc 22,
70).
Bị hạ nhục trong tâm hồn với các chế nhạo,
xỉ vả, và khạc nhổ,
thân xác phải chịu
đánh đập, đòn vọt và mạo gai khiến
cho diện mạo của Ngườii không còn hình tượng
người ta nữa. Trước quyền bính tôn giáo và
chính trị: Ngài đã tự biến thành tội nhâ và bị
coi là bất chính. Thế rồi quan Philatô gửi
Ngươfi qua cho vua Hêrôđê và ông này lại gửi Chúa trở
lại cho quan tổng trấn. Với Philatô, ông lồng
chính trị vào khi hỏi Chúa Giêsu : "Ông có phải là Vua dân Do Thái không?" (Lc 23,3). Chúa
Giêsu vẫn giữ thái độ và hành vi tương tự
như trước cộng nghị : " Ông nói tôi là vua" (Lc 23,3).
Chúa cũng yêu cầu chúng ta trả lời cùng một
câu hỏi, mà Chúa hỏi các môn đệ : "Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai ?"
Chúa Giêsu không đòi cho mình
Sau khi bị bán với 30 đồng bạc và bị phản
bội bởi một môn đệ Ngài đã chọn và gọi
là bạn. Chúa Giêsu trong tư cách là con người bị bỏ
rơi và bị ngược đãi. Người bị
nộp vào tay kẻ dữ, bị mạc cả với kẻ
sát nhân, phải vác thánh giá nặng nhục nhã và bị nhạo
báng như tên nô lệ. Người khiêm nhường đến
độ không còn được tôn trọng. Người
đã tự hủy mình ra không, không còn sức để vác
cây thập giá.
Trong khi Ngài bị khước từ mọi công lý, Chúa
Giêsu cũng cảm nhận trên da thịt mình sự dửng
dưng, bỏi vì không ai muốn lãnh trách nhiệm đối
với số phận của Người. Dân chúng biến
các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo, thích cho một
kẻ sát nhân được trả tự do cho họ
hơn. Và thế là Chúa bị chết trên thập giá, là cái
chết đớn đau và hổ nhục nhất dành cho
các kẻ phản bội, nô lệ và các kẻ tội phạm
tồi tệ nhất.
Chúa không đòi cho mình một đặc quyền đặc
lợi nào, chẳng là gì trước sự tàn bạo của
binh lính, kể cả Simon người Cyrênê, Chúa cũng
chẳng là gì, ông kề vai vác đỡ, chẳng qua ông bị
bắt vác mà thôi. Ông không biết ý nghĩa, cử chỉ
vác thánh giá này. Những người nhạo báng hay tên lính lấy
bọt biển nhúng giấm cho Chúa uống, họ có hiểu
được không?
Ba năm mỏi chân đi giảng đạo cho muôn dân,
với những phép lạ Chúa làm, an ủi những người
ốm đau, bệnh tật, nghèo nàn đã không làm cho họ
khám phá con người thật của Chúa Giêsu. Trong vườn
Cây Dầu, một mình đối diện với Chúa Cha,
Chúa không xin điều gì : ngoại trừ xin ơn tha
thứ cho những ai làm khốn mình, vì Chúa đến để
mang ơn tha thứ cho mọi người : "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng
không biết việc chúng làm" (Lc 23, 34).
Cuộc đối thoại bất
ngờ
Cùng chịu đóng đanh với Chúa Giêsu có hai tên trộm
cướp, một đứa bên trái, một đứa
bên phải. Chúa nghe hai tên đối thoại với nhau, một
kẻ nhạo báng Chúa, còn kẻ kia thừa nhận mình là kẻ
có tội : "Chúng ta phải
chịu xứng với việc chúng ta đã làm" (Lc
23, 41), như chúng ta vẫn đọc trước khi cử
hành Thánh lễ : "Tôi thú
nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em
tôi đã phạm tội".
Một trong hai tên trộm thưa Chúa Giêsu rằng:
"Xin nhớ đến
tôi cùng..." (Lc 23, 41); còn chúng ta, chúng ta xin anh chị em
"cầu nguyện cho tôi,
trước tòa Thiên Chúa, Chúa chúng ta". Trong khoảng khắc
khó nói những lời ấy vì Chúa Giêsu cũng bị tra tấn,
mà tên trộm lành đã kêu lên với Chúa Giêsu là Chúa với cả
con người anh. Chúa Giêsu trả lời ngay lập tức
: "Quả thật, Ta bảo
ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên
đàng với Ta" (Lc 23, 42). Chúa Giêsu vén mở
gương mặt thật của Thiên Chúa, là sự
thương xót. Người tha thứ cho các kẻ đóng
đinh mình, mở cửa thiên đàng cho người trộm
ăn năn.
Bóng tối và màn Đền Thờ bị xé
"Vào khoảng giờ thứ
sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất
cho đến giờ thứ chín…màn trong đền thờ
xé ra" (Lc 23,44-45). Chúa Giêsu trút hơi thở trao phó linh
hồn trong tay Chúa Cha và từ nay, chắc chắn Người
là tác nhân Phục Sinh, hoàn tất điều có thể trao
ban. Lòng thương xót của Chúa chạm tới con tim của
viên quản bách quân, khiến anh ngợi khen vinh quang Thiên
Chúa, và đám đông cảm thấy nhu cầu cần
thiết phải được tha thứ liền đấm
ngực ăn năn trở về mừng lễ Vượt
Qua.
Giuse người Arimathia với tư cách là môn đệ
đã quyết định tự mình đến xin Philatô
cho được tháo đanh táng xác Chúa. Những người
phụ nữ thánh thiện về nhà chuẩn bị thuốc
thơm vì hôm sau là lễ Vượt Qua. Các đèn chiếu
sáng ngày Sabát của lễ Vượt Qua bắt đầu
tỏa sáng. Nhưng nó vẫn còn tối.
Vinh quang Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa vào buối sáng
ngày Phục Sinh khi tấm cửa mộ bị lăn ra
như bức màn của đền thờ bị xé. Ngày thứ
nhất trong tuần, sau khi sống lại, Chúa đến
giữa họ, chia sẻ bánh trên đường Emmau, và một
miếng cá nướng (x.Lc 24,13-49).
Chúa đã nói với họ vào tối Thứ Năm Tuần
Thánh: "Thầy đã tha thiết
ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con
trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các
con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa,
cho đến khi lễ này được thực hiện
trong nước Thiên Chúa" (Lc 22, 15-16). Nước
Thiên Chúa đã bắt đầu.
Lạy Chúa, chúng con vừa cử
hành các mầu nhiệm thánh, Chúa đã ban cho chúng con
được thỏa chí toại lòng. Nhờ Con Một
Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa làm cho chúng con tin
tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu
độ, thì nhờ mầu nhiệm Người đã phục
sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng
mong ước. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
|