Bài học về lòng xót
thương – Lm. Anmai
Có
người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại,
chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay
chúng ta được nghe trong Chúa nhật tuần 4 Mùa Chay.
Chương
15 của Luca là một trong những chương sách
đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân
ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui
chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống
trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm
được. Bối cảnh là những người thu
thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu
để nghe Người giảng, làm cho người
Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm
nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa
đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho
những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang
Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng
được gọi là dụ ngôn đứa con hoang
đàng. Với sự quyến định trở về
của mình, người con này được đề cao
hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta.
Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn
vào hình ảnh từ bi đại hải của
người cha. Nhìn như thế để như là trách
khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt
thị của người anh cả.
Dẫu
sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa
rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử
sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai
người con. Dường như nhân vật nổi
bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi
vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức
Giê-su kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự
giống như người con cả.
Nét
độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca
về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin
Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm
đến người nghèo, các tội nhân, những người
bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các
đạo sĩ nhưng chính những người chăn
chiên mới là người đến máng cỏ đầu
tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ
tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa
nói những điều tốt lành về người
Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu
thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt
vời về lòng thương xót (chương 15). Các
phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt
trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ
là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa
Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận
sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy
đức tin kiên cường của các bà trong những
giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin
Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các
dụ ngôn về lòng thương xót, chương này
gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn.
Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc
biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức
Giê-su nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và
nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối
cảnh và lý do Đức Giê-su kể các dụ ngôn ở Lc
15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội
lỗi đều lui tới với Đức Giê-su
để nghe Người giảng. 2Những người
Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này
đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống
với chúng.’ 3Đức Giê-su mới kể cho họ
dụ ngôn này:…”
Lc
15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do
Đức Giê-su kể các dụ ngôn. Trước hết là
những người thu thuế và những người
tội lỗi đến với Đức Giê-su
để nghe Người giảng. Tiếp đến là
lời xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các
kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội
lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này
cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là
việc những người thu thuế và tội lỗi
đến với Đức Giê-su và nghe Người
giảng, mà chính Đức Giê-su tiếp đón họ và
ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón
nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giê-su,
Người tiếp đón và ăn uống với
những người thu thuế và tội lỗi. Về
phía họ, họ đến với Đức Giê-su
để nghe Người giảng.
Dụ
ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như
người mục tử bỏ 99 con chiên lại
để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi
Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến
nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi
người đến chung vui vì đã tìm lại
được con chiên bị mất. Trong mắt của
Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu
đuối và tội lỗi đến đâu, đều
là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế.
Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu
đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có
quyền thất vọng về tình thương của Chúa
vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội
lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần
thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay
đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong
chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn
“Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi
tiếng nhất, cả về văn chương lẫn
nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã
đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là
“Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”.
Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là
sự phung phí của cải vật chất của
đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của
người cha dành cho cả hai đứa con, lòng
thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu
nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con
đầu lòng được hưởng gấp đôi
phần gia sản theo luật lệ của người Do
thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong
dụ ngôn được chia một phần ba sản
nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi
đến khi người cha qua đời theo lẽ
thường của sự đời . Nếu như
việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có
những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy
nhiên điều quan trọng của luật ở khía
cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh
lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt
với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình
sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả,
anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,.
Với quyết định như thế, anh ta đem
mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở
lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn
đối với gia đình, cách riêng với người
cha.
Phải
chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống
phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo,
với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô
uế, “lạc đạo” và như thế, người
con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia
đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn,
người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì
“ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho
đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người
con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ
cực đến tột cùng. Được trở về
nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn
của anh ta. Để cuộc trở về
được thành công theo ước muốn, anh chuẩn
bị kỹ lưỡng những gì phải thưa
thốt với cha mình, và lường trước sẽ
bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn
soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù
thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn
thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi
thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và
hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ
người con không kịp nói hết bài diễn văn
đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất
giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp
(St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm
chống lại anh, nhưng giống như người cha
trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà
giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc
mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là
nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn
nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ
không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không
có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc
xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng
được tha tội không… chỉ có điều quan
trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống
lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu
chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn
với cảnh đẹp tuyệt vời như thế,
không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con
cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng,
đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng
sống công chính đến thế: “Đã bao năm con
hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29),
thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con
để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh
sự công chính đó, anh khước từ việc chia
sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của
cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở
về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng
thương xót của người cha bừng sáng và xua tan
mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón
đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra
đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai
đứa con đều được hạnh phúc. Anh con
cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc
của bản thân anh. Người cha không từ chối
điều đó, nhưng những điều đó
đều không quan trọng bằng điều này là:
một đứa con và một người anh em đã
chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm
thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải
dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn
mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần
nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp.
Giống như Esau, đến giai đoạn cuối
đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng
của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống,
ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong
nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều:
“Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên
Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương
chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người
em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi
hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung
thương xót của mỗi người chúng ta.
|