HIỆP
SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C
Gs 5,9a.10-12 ; 2 Cr 5,17-21 ; Lc 15,1-3.11-32
HỒI
TÂM TRỞ VỀ VỚI CHÚA CHA ĐẦY LÒNG TỪ BI
THƯƠNG XÓT
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 15,1-3.11-32
(1)
Tất cả những người thu thuế
và những người tội lỗi
thường đến gần Đức Giê-su
mà nghe Người. (2) Còn những
người thuộc phái Pha-ri-sêu và các Kinh
sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp
phường tội lỗi và ăn uống
với chúng. (3) Đức Giê-su mới
kể cho họ dụ ngôn này. (11) “Một
người kia có hai con trai. (12) Người con
thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin
cho con phần tài sản con được
hưởng. Và người cha đã chia
của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau,
người con thứ thu góp tất cả
rồi trẩy đi phương xa. Ở đó
anh ta sống phóng đãng, phung phí tài
sản của mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu
hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy
một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta
bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên
phải đi ở cho một người dân trong
vùng. Người này sai anh ta ra đồng
chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy đậu
muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng,
nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ anh ta
hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu
người làm công cho Cha ta được
cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây
lại chết đói ! (18) Thôi, ta đứng lên,
đi về cùng cha và thưa với
Người: ”Thưa cha, con thật đắc
tội với trời và với cha, (19)
chẳng còn đáng gọi là con cha
nữa. Xin coi con như một người làm
công cho cha vậy”. (20) Thế rồi anh ta đứng
lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở
đàng xa, thì người cha đã trông
thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm
cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy
giờ người con nói rằng: “Thưa
cha, con thật đắc tội với trời
và với cha, chẳng còn đáng
gọi là con cha nữa...” (22) Nhưng
người cha liền bảo các đầy
tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất
ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào
ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. (23) Rồi
đi bắt con bê đã vỗ béo làm
thịt để chúng ta mở tiệc ăn
mừng! (24) Vì con ta đây đã chết
mà nay sống lại. Đã mất mà nay
lại tìm thấy”. Và họ bắt
đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy
người con cả của ông đang ờ
ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe
thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền
gọi một người đầy tớ ra
hỏi xem có chuyện gì. (27) Người
ấy trả lời: “Em cậu đã về,
và cha cậu đã làm thịt con bê béo,
vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”.
(28) Người anh cả liền nổi giận
và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra
năn nỉ. (29) Cậu trả lời cha: “Cha coi,
đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha,
và chẳng khi nào trái lệnh. Thế
mà chưa bao giờ cha cho lấy
được một con dê con ăn mừng
với bạn bè. (30) Còn thằng con
của cha đó, sau khi đã nuốt hết
của cải của cha với bọn điếm, nay
trở về thì cha lại giết bê béo ăn
mừng !”. (31) Nhưng người cha nói
với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng
ở với cha. Tất cả những gì
của cha đều là của con. (32) Nhưng
chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ,
vì em con đây đã chết mà nay lại
sống, đã mất mà nay lại tìm
thấy”.
2.
Ý CHÍNH: Trong bài
Tin mừng hôm nay đoạn mở đầu (c
1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo
là chính dụ ngôn trình bày về lòng
từ bi nhân hậu của một người cha
(c 11-32), gồm hai phần chính như sau:
-
THÁI ĐỘ BAO DUNG CỦA NGƯỜI CHA
ĐỐI VỚI ĐỨA CON THỨ: thể hiện qua
các hành động sẵn sàng chia gia
tài theo yêu cầu của đứa con ngay khi ông
còn sống, nôn nóng chờ mong đứa
con đi hoang trở về, chạnh lòng xót
thương khi vừa thấy con từ xa và
sẵn sàng tha thứ trước khi nó
kịp thú tội, lập tức trả lại
địa vị làm con, tổ chức bữa
tiệc mừng con hoang trở về.
-
THÁI ĐỘ HẸP HÒI CỦA CON
TRƯỞNG: Sau khi biết em đã trở về
nhà và được cha không những không
trừng phạt mà còn mở tiệc ăn
mừng, thì người con trưởng
đã tỏ thái độ hẹp hòi và
ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị
đứa em bất hiếu, đã đối xử
bất công với anh là đứa con hiếu
thảo. Cuối cùng người cha đã ra
gặp và giải tỏa những lời
trách móc của người con cả. Ông khuyên anh
hãy noi gương ông để bao dung với
đứa em tội lỗi vì: “Em con đây
đã chết mà nay lại sống, đã
mất mà nay lại tìm thấy”.
3.
CHÚ THÍCH:
-
C 1-3: + Những người thu thuế: Chỉ trong Tin mừng Nhất
lãm (Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca) mới đề
cập đến hạng người thu thuế
này (x. Mt 9,9 ; Mc 2,14 ; Lc 5,27). Họ bị coi là tay
sai của chính quyền Rô-ma và bị tố
cáo đã lạm thu thuế để
hưởng lợi bất chính (x. Lc 19,8b). Dân Do
thái liệt họ vào hạng người
tội lỗi xấu xa, ngang hàng với bọn
trộm cắp đĩ điếm (x. Mt 21,31-32). +
Những người tội lỗi đến nghe
Đức Giê-su giảng: Đây là các
tội nhân đã phạm tội công khai như: Gái
điếm (x. Lc 7,37), người phụ nữ Sa-ma-ri-a
có cuộc hôn nhân bất chính (x. Ga 4,18), người
đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3), kẻ bị
quỷ ám (x. Lc 8,2) kẻ chơi bời trác
táng (x. Lc 15,13.30), hay tên gian phi (x. Lc 23,39). + Những
người thuộc phái Pha-ri-sêu và các Kinh
sư: Pha-ri-sêu (hay Biệt phái) là
những người Do thái đạo
đức, sống tách biệt khỏi quần
chúng. Kinh sư (hay Luật sĩ) là những
nhà trí thức, xuất thân từ
trường Kinh thánh. Họ thường giải
thích Kinh thánh trong các hội đường
Do thái vào các ngày Sa-bát. Họ
được dân chúng kính trọng gọi
là “Ráp-bi”, nghĩa là “Thầy” (x. Mt 23,7). + Ông
này đón tiếp phường tội lỗi
và ăn uống với chúng:
Người Pha-ri-sêu và Kinh sư trách
Đức Giê-su vì đã thu nhận Lê-vi là
người thu thuế làm môn đệ, lại
còn đến ngồi đồng bàn ăn
uống với bọn thu thuế bạn bè của
anh ta (x. Lc 5,27-32).
- C 11-13: + Một
người kia có hai con trai: Đây
là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Lu-ca,
nói lên lòng bao dung của một người cha
ám chỉ Thiên Chúa, đối với
đứa con hoang đàng bất hiếu, ám
chỉ các người thu thuế tội lỗi.
- C 14-16: + Đi ở cho
một người dân trong vùng: Đứa
con thứ này đã rơi vào hòan
cảnh túng cực: tự bán mình
làm nô lệ cho người dân ngoại và
bị người này sai đi chăn heo. Heo
là con vật bị Luật Mô-sê coi là nhơ uế,
vì được dân ngọai dùng làm
lễ vật cúng tế cho thần minh của họ
(x. Đnl 14,8). + Ước ao lấy đậu
muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng,
nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta
giờ đây không bằng loài heo nhơ
bẩn!
- C 17-20a: + Bấy giờ anh
ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan
cảnh đói khổ làm cho đứa con
thứ phải xét lại hành động sai
trái của mình. + Thế rồi anh ta
đứng lên đi về cùng cha: Anh
trở về không phải do thương nhớ
cha, mà chỉ là một hành động có tính
tóan và đầy vụ lợi! Dụ ngôn
đã không nhấn mạnh đến sự ăn
năn sám hối của người con thứ mà
chỉ muốn đề cao tình thương bao dung
của người cha.
- C
20b-24: + Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm
cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động
từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành
động sau đó. Động từ nầy tìm thấy
trong trình thuật bà góa thành Na-im (7,3) và câu chuyện
người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành (10:33). Trong cả ba
trường hợp này, “chạnh lòng thương” nên
đã cứu sống người sắp chết hoặc
tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tình thương tha
thứ. Tình thương này được
diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa
con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy
và chủ động chạy ra ôm hôn con để
biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện,
tha ngay trước khi nó kịp nói lời
thú tội. + Nhưng người cha liền
bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem
áo đẹp nhất ra đây...: Người
cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin
lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá
điều nó dám mong ước. Ý nghĩa
của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St
41:42) cho thấy người cha đã trả lại
địa vị làm con, dù anh ta chỉ dám xin trở thành người
làm công cho cha. “Giết bò béo” (St 18,7) cho thấy niềm vui
tột đỉnh của người cha muốn chia
sẻ niềm vui với người khác. + Chân đi dép: ám chỉ một người
tự do, khác với nô lệ phải đi chân
đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại
đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao;
đồng thời phục hồi lại cho nó quyền
làm con, vì có người cha nào lại không xót thương
con cái mình (x. Tv 103:13).
- C
25-28: + Người con cả: Tượng
trưng cho các đầu mục dân Do thái. +
nổi giận và không chịu vào nhà: Anh
nổi giận vì nghĩ rằng cha đã
cư xử bất công với anh. Anh từ
chối vào nhà để tỏ thái độ
phản đối cách cư xử bao dung của
cha, khi ông không những đón nhận thằng
con bất hiếu mà còn mở tiệc để
ăn mừng nó trở về.
- C
29-30: + Còn thằng con của cha đó: Người
con cả không coi người kia là em mình nên
dùng cách nói khinh dể, giống như
người Pha-ri-sêu đã khinh dể
người thu thuế trong dụ ngôn “hai
người lên Đền thờ cầu nguyện”
(x. Lc 18,11).
- C 31-32: + Con à, lúc
nào con cũng ở với cha. Tất cả
những gì của cha đều là của con: Người
cha nhắc cho anh con cả ý thức về
tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn
được hưởng. + Nhưng chúng
ta phải ăn mừng và hoan hỷ:
Người cha mời gọi anh con cả hãy
bước vào ngôi nhà tình thương
của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi
đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm
trở về. + “Em con đây”: Ong chỉnh
lại lối xưng hô khinh miệt của
người anh: “Thằng con của cha đó”
bằng từ yêu thương “Em con đây”. + “Đã
chết mà nay lại sống, đã mất mà
nay lại tìm thấy”: Qua câu này Đức Giê-su
gián tiếp trả lời cho những tiếng
xầm xì của người Pha-ri-sêu và
mời họ chia sẻ tâm tình của Thiên Chúa
đối với những kẻ tội lỗi.
4.
CÂU HỎI:
HỎI 1) ƯU VÀ KHUYẾT ĐIỂM
CỦA CÁC NGƯỜI PHA-RI-SÊU VÀ KINH SƯ
LÀ GÌ?
ĐÁP:
* VỀ
ƯU ĐIỂM: Các người Pha-ri-sêu
và Kinh sư được đánh giá
là những người có lòng
đạo đức, thể hiện qua việc siêng
năng ăn chay cầu nguyện và làm phúc
bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và
tuân giữ Luật Mô-sê trong từng chi tiết,
nhất là luật về ngày Hưu lễ
(nghỉ việc ngày Sabát), luật Thanh tẩy
(rửa tay, rửa bình, rửa các đồ
đồng, tắm rửa...). Về giáo
lý họ cũng tin như Đức Giê-su đã
giảng: tin có thiên thần (x. Cv 23,6-8), tin linh hồn
bất tử và thân xác lòai
người sau này sẽ sống lại…
* VỀ
KHUYẾT ĐIỂM: Đức Giê-su đã
nhiều lần lên tiếng sửa dạy và
thậm chí còn nặng lời quở
trách họ về thói đạo đức
giả. Chẳng hạn: Họ chỉ giữ
Luật theo hình thức bề ngoài; Tranh nhau
ngồi chỗ nhất trong các đám tiệc
và ghế đầu trong hội đường;
Ăn mặc lụng thụng để được
người ta kính trọng (x. Mt 23,5-6); Tự
hào vì đã tuân giữ Lề luật;
Tự mãn về sự hiểu biết Luật
và khinh thường dân chúng dốt nát;
Dẫn đường mù quáng và có
thái độ cố chấp khi đề cao truyền
thống và luật truyền khẩu, mà quên đi
các điều chính yếu của Luật (x. Mt
23,23); Bắt dân chúng tuân giữ các điều
khỏan Lề Luật trong từng chi tiết đang
khi chính họ lại không hề tuân giữ (x. Mc
12,38-40).
HỎI 2) THÁI
ĐỘ CỦA CÁC PHA-RI-SÊU VÀ KINH SƯ ĐỐI
VỚI ĐỨC GIÊ-SU THẾ NÀO?
ĐÁP: Vì không nhận Đức Giê-su
là Đấng Thiên Sai (x. Mc 11,27-33), nên họ
thường dò xét, gài bẫy để
thử thách và tìm bắt lỗi
Người. Họ đòi Người phải
làm phép lạ để chứng minh sứ
vụ Thiên Sai (x. Mc 8,11). Họ xuyên tạc các phép
lạ Người làm để dân chúng
đừng tin theo Người và không gia nhập vào
Nước Trời do Người thiết
lập (x. Mc 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết
với đảng Hê-rô-đê, và Thượng
Hội Đồng Do thái ở Giê-ru-sa-lem để
bắt Đức Giê-su và kết án
tử hình cho Người cách bất công
(x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế
giễu Người khi treo Người trên cây
thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pha-ri-sêu
cũng có một số người tin Đức
Giê-su là Đấng Thiên Sai và sau này đã trở
thành môn đệ của Người như: Ông Ni-cô-đê-mô
(x. Ga 3,1), Ga-ma-li-en (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông
đồ Phao-lô (x. Cv 22,3).
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa,
thì người cha đã trông thấy. Ông
chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta
và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2.
CÂU CHUYỆN:
1)
LÒNG CHA BAO DUNG:
RI-SỚT
PIN-ĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện
ngắn về một cậu bé tên là ĐE-VÍT
(David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén
về nhà ăn cắp một số tiền
lớn rồi bỏ đi bụi đời.
Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn
cảnh đói khát khổ cực, cậu đã
viết một lá thư gửi về cho mẹ.
Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và
nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn
rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và
cho cậu được về nhà sum họp với
cha mẹ như trước. Nội dung lá thư
ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài
ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe
lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ
mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng
lòng tha thứ và chấp nhận cho con về
nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột
một miếng vải trắng trên cây táo hồng
ở cạnh nhà mình mẹ nhé !”.
Vài
ngày sau, Đe-vít lên xe lửa để trở
về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển đến
gần nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục
hiện ra trong tâm trí cậu bé Đe-vít: Lúc
thì trên cây táo có cột một miếng vải
trắng, lúc lại chẳng thấy có
miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua
nhà, trái tim Đe-vít đập nhanh hơn.
Cậu quay sang người ngồi cạnh và
ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp
cháu việc này không ạ?” Được ông
ta đồng ý, cậu nói: “Vào khúc
quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây
táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây táo ấy
và cho cháu biết trên cành cây ấy có
cột một miếng vải trắng nào không
nhé ?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt
nhanh qua nhà, Đe-vít nhắm mắt lại
rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng
vải trắng nào treo trên cành cây táo
cạnh nhà cháu không ạ?” Ông ta sửng sốt
trả lời rằng: “Ô, này cậu bé,
không phải chỉ một mà cành cây nào ta
cũng thấy có cột vải trắng cả !”
Thì
ra sợ con trai không nhìn thấy giải vải
trắng, ông bố của cậu bé đã treo
thật nhiều vải trắng để chắc
chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu
tình thương tha thứ để cậu yên tâm
trở về.
2) LÒNG MẸ
THƯƠNG CON THỂ HIỆN RA SAO ?
Một cô bé 5 tuổi đang
ngồi trong
lòng mẹ, chợt lên
tiếng hỏi: “Mẹ ơi, con
có thể nhìn thấy được lòng
mẹ không ?”. Bà mẹ
đáp :
“Mẹ không biết,
nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem con thấy gì trong đó ?” Cô bé nhướng mắt chăm chú nhìn
vào đôi mắt của mẹ, rồi
em sung sướng kêu lên : “Mẹ ơi ! Con đã nhìn thấy
lòng mẹ thương con rồi. Trong mắt mẹ, con chỉ
nhìn thấy duy một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ
!”.
Đối với bà mẹ
thì đứa con là tất cả. Mỗi
người chúng ta cũng là con do Chúa sinh thành và rất mực
yêu thương chúng ta.
3) CẢM NGHIỆM TÌNH
THƯƠNG CỦA CHA GIÚP CON DỄ HOÁN CẢI:
GAN-DHI kể rằng khi ông được 15 tuổi,
ông đã phạm tội ăn cắp của anh mình một
đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông cảm thấy
áy náy nên quyết định đến thú tội với
cha mình. Ông lấy ra một tờ giấy, viết lên
đó tội ăn cắp mình đã làm và xin cha tha thứ.
Cuối thư ông cũng hứa sẽ không bao giờ tái phạm
nữa. Khi ấy cha ông đang bị bệnh phải nằm
trên giường. Gan-dhi tiến lại đưa tờ giấy
thứ tội cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử.
Người cha đã ngồi dậy, cầm tờ giấy
đọc, trong lúc ông đang đọc
thì Gan-dhi thấy hai dòng lệ từ đôi mắt cha chảy
xuống. Gan-dhi cũng không cầm được nước
mắt. Cuối cùng khi đọc xong, người cha đã
không hề nổi giận và cũng chẳng nói lời trách
móc. Ông ôm chầm lấy con và cảm thấy sung sướng
vì con mình đã biết hối hận về hành động
xấu đã làm.
Cảm nghiệm được tình yêu thương tha
tội của cha là một cảm nghiệm rất sâu sắc.
Sau này Gan-dhi viết : "Chỉ có người nào
đã trải qua cảm nghiệm về một tình yêu
như thế mới có thể hiểu được nó mà
thôi".
4)
THA THỨ LÀ QUÊN MỌI TỘI KẺ KHÁC ĐÃ XÚC PHẠM
ĐẾN MÌNH:
Một bà già nọ không mấy ngày là
không đến gõ cửa gặp cha xứ, kể cho ngài
nghe những giấc mơ của bà. Một hôm bà cho biết
đêm qua Chúa lại hiện ra với bà. Để làm bà nản
lòng đừng tiếp tục đến quấy rầy nữa,
cha xứ bảo: ”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, thì bà
hãy hỏi Chúa: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? Sau
đó bà mới được tới đây kể lại
cho tôi nghe nhé”. Rồi mấy ngày sau đó không thấy bà
già ấy đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì kế
hay của mình. Nhưng một tuần sau thì thấy bà quay
trở lại.
- Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện
ra với con.
- Thế bà có nhớ hỏi Chúa điều
tôi đã dặn bà không ?
- Thưa cha có
chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp
:
- Thế bà đã hỏi Chúa thế nào
?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo
:”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm :
- Vậy Chúa có trả lời không ?
- Có chứ .
Bây giờ thì cha xứ bắt đầu
lo lắng thật sự. Cha gặng hỏi:
- Chúa nói sao ?
- Chúa nói: ”Ta đã quên hết rồi”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm.
(Kể theo ĐHY Phanxicô X. Nguyễn
văn Thuận)
3. THẢO LUẬN: 1) Trong bốn
việc phải làm khi đi xưng tội như:
xét mình, ăn năn dốc lòng chừa,
xưng tội và đền tội, thì
điều nào là quan trọng nhất để
được giao hòa với Chúa ? Tại sao ? 2) Trong Mùa
Chay này, mỗi người chúng ta sẽ ăn năn sám
hối tội nào cụ thể nhất và sám hối
bằng cách nào ?
4. SUY NIỆM:
Tin mừng CN 4 Mùa Chay hôm nay cho
thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối
với các tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một
người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng
thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con
cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng
tình thương của Chúa như sau: “Muôn ngàn đời
Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho
thấy thái độ của ba nhân vật chính trong dụ
ngôn để từ đó chúng ta biết mình phải làm gì
:
1) Thái độ sám hối quyết
tâm trở về của đứa con thứ tội
lỗi (15,12-19) : Tội của đứa con thứ là
tội bất hiếu khi đòi cha chia gia tài cho mình ngay khi cha
còn sống. Sau đó anh ta đã bỏ nhà đi hoang và
ăn chơi phóng đãng tiêu tán hết số tiền
của cha. Đến khi anh lâm cảnh đói rách thì anh phải
đi làm thuê làm mướn và bị người chủ dân
ngoại khinh dể và đối xử tệ hơn
một con heo. Chính sự cùng khổ đã khiến anh
hồi tâm suy nghĩ và giúp anh quyết tâm đứng
dậy quay về xin lỗi cha, với ước mong
được cha đối xử như một
người làm công thôi. Câu“Đứng lên, đi về
cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá
khứ tội lỗi để về với người
cha thân yêu.
2) Thái độ bao dung của
người cha nhân hậu (15,20-24): Về phần
người cha, sau khi đứa con thứ ra đi, ông
buồn sầu nhớ thương, ngày ngày ngóng nhìn ra
cổng chờ mong nó mau quay về nhà. Khi thấy bóng con
từ xa, ông đã nhận ra nó và “chạnh lòng
thương”: Ông không trách mắng hay trừng phạt con,
mà chạy tới ôm chầm lấy cổ nó hôn lấy hôn
để, rồi mau mắn trả lại địa
vị làm con cho nó khi truyền gia nhân thay áo mới cho nó,
đeo nhẫn vào ngón tay, xỏ giầy vào chân và mở tiệc
mời bạn bè hàng xóm đến ăn mừng
đứa con, với lý do: “Tưởng nó đã chết mà
nay sống lại, tưởng đã mất mà nay lại
tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu
ngoài sự tưởng tượng của đứa con
hoang đàng, nói lên tình thương bao dung của cha.
3) Thái độ hẹp hòi của
người con trưởng (15,25-32): Người anh
trưởng từ ngoài đồng trở về gần
đến nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới
biết thằng em đi hoang mới trở về và đã
được cha không những tha tội mà còn mở
tiệc ăn mừng. Anh ta tỏ thái độ giận
cha bằng cách không thèm đi vào nhà. Khi gặp
được cha, anh đã chỉ trích lối hành xử
của cha mà anh cho là bất công không thể chấp
nhận được (15,29). Thái độ giận dỗi
của anh khiến người cha phải xuống
nước năn nỉ và cố gắng giải thích cho anh
hiểu và cảm thông với mình: ”Tất cả những
gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn
kết thúc bằng lời của người cha khuyên con
hãy có lòng bao dung với đứa em lầm lỗi: “Vì
em con đây đã chết mà nay lại sống,
đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Chính lòng nhân hậu, yêu thương và không chấp nhất
tội lỗi của đứa con đi hoang đã khiến
người cha quên đi mọi lỗi lầm của
đứa con hoang đàng đã gây ra, mà chỉ còn thấy
trước mặt là đứa con yêu mà ông hằng mong nó
mau trở về, đứa con ông tưởng đã mất
mà nay lại tìm thấy. Ông vui sướng mở tiệc
liên hoan, cho đàn ca múa hát, để ăn mừng nó trở
về.
Còn thái độ của người anh cả khi đi
làm về, nghe tiếng đàn hát ăn mừng đứa
em mới trở về được cha mừng rỡ
hân hoan, nên chẳng những anh không vui mà còn tỏ thái độ
hờn trách khiến cha phải ra phân trần, năn nỉ
và mời anh ta vào trong nhà với ông để gặp lại
đứa em "đã chết nay sống lại,
đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng
định với anh con cả rằng: "Tất cả
những gì của cha đều là của con" (Lc
13,31).
Qua câu chuyện về tình thương tha thứ của
người cha, ta thấy tình thương của Thiên Chúa
Cha thật quảng đại, “chậm bất bình và hết
sức khoan dung”, một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt
nhưng luôn sẵn sàng tha thứ. Tình thương bao la của
Thiên Chúa đã được bài Thánh thi diễn tả
như sau: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình
thương" (Tv 135).
4) Làm gì để đáp lại Lòng
Chúa Thương Xót ? :
+ Dụ ngôn người cha bao dung
và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân
từ hay thương xót của Thiên Chúa
đối với các tội nhân. Chúa đã yêu thương
chúng ta với tình yêu bao la như một
người cha nhân hậu, sẵn sàng tha thứ
tội lỗi chúng ta là con cái của Ngài : Ngài tha thứ
không mệt mỏi, tha vô điều kiện và tha luôn
mãi !
+ Chúa phán: “Tội các
ngươi dầu có đỏ như son, cũng hóa nên trắng
như tuyết. có thắm tựa vải điều,
cũng nên trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của
chúng ta có nặng tới đâu, thì tình
thương của Chúa còn sâu nặng hơn
gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có
nhiều tới mức nào, thì Chúa
cũng vẫn hằng chờ đợi để
tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng
sám hối và quyết tâm trở về.
+ Thiên Chúa tôn
trọng sự tự do ra đi và chờ
đợi sự tự do trở về của
chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người
chúng ta sẽ làm gì cụ thể để đáp lại
tình thương bao dung của Thiên Chúa ? Cần cấp
thời sám hối ăn năn quay về làm hòa với Chúa
và lãnh ơn giao hòa trong phép Giải tội; Hãy đáp
lại lòng thương xót của Thiên Chúa bằng việc
thương xót những người đau khổ và
quảng đại tha thứ lỗi lầm cho tha nhân; Hãy
quan tâm giúp người thân trong gia đình và bạn bè
đang lạc xa Chúa để họ mau hồi tâm trở
về để nhận được ơn tha thứ
của Chúa.
5. LỜI
CẦU:
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA
CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi
nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con
Một Cha là Chúa Giê-su đến thế gian để
dạy loài người chúng con nhận
biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng từ bi nhân
hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con
hiểu được Cha đang mời gọi
các tội nhân trong đó có chúng con mau quay về làm hòa
với Cha.
- LẠY CHA, thật đáng
tiếc khi có những người cha trong gia
đình và trong cộng đoàn... chưa
thể hiện được tình thương bao dung
của Cha, nên đã trình bày về Cha như
một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt
để làm cho họ khiếp sợ phải hồi
tâm sám hối. Có những người cha
trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã
dùng bạo lực đe nẹt con cái khi
chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha
biết yêu thương con cái giống như Cha.
Nhờ đó các tội nhân sẽ cảm nghiệm
được tình thương bao dung của cha và sớm
quay về giao hòa với Cha trong Mùa Chay này.
X)
HIỆP CÙNG MẸ MARIA.- Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|