LỜI NÓI - VIỆC LÀM - ƠN CHÚA
Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn
Lâm
Ðọc và nghe lần đầu,
chúng ta khó bắt được ý tưởng của các bài
Kinh Thánh hôm nay. Ðó không phải là những
lời khó hiểu. Những ý tưởng
sở dĩ không dễ bắt vì cấu trúc của những
đoạn văn này không chặt chẽ, và các tác giả dường
như nói đến những vấn đề rất khác
nhau. Chúng ta đừng lấy làm lạ vì trong các Chúa
nhật quanh năm, phụng vụ muốn giáo dục chúng
ta về đời sống đạo mỗi lần một
tí và không cần theo một hệ thống
nào. Vì đạo là sự sống chứ không
phải là một hệ tư tưởng. Ðối với
một hệ tư tưởng, muốn thuyết minh người
ta phải theo luận lý đầu đuôi
chặt chẻ. Còn đối với sự sống,
không có quy luật tăng cường cố hữu nào.
Mỗi chân lý đều co thể biệt lập
mà vẫn có thể mồi thêm cho sự sống tinh thần
của con người.
Tuy nhiên chúng ta có thể nói rằng ba bài Kinh
Thánh hôm nay đều muốn nói đến việc phân biệt
con người đạo đức thánh thiện, nhờ
lời nói, nhờ việc làm, và nhất là nhờ ơn Chúa.
1. Lời nói
Bài sách huấn ca không có vẻ gì
là đạo đức cả. Ðó là mấy
câu kinh nghiệm. Nó thuộc loại văn
khôn ngoan, dạy cách xư xử ở đời. Nhưng
nếu đặt những câu dạy khôn ngoan này vào văn
mạch và luận lý của tác giả, chúng ta thấy chúng
phục vụ đạo đức và rất có giá trị.
Tác giả Ben Sira là một học giả Do
Thái, sống ở đầu thế kỷ II trước
công nguyên. Như các nhà trí thức đương
thời ông hiểu biết nền văn minh Hy Lạp đang
thịnh hành ở mọi nơi. Nhưng vì là con người
có đạo, ông biết dùng lời Chúa để phê phán nếp
sống do nền văn minh ấy tạo ra. Và ông muốn
chia sẻ các suy nghĩ của mình với đồng đạo
và đặc biệt với lớp trẻ Do Thái đang lớn
lên và hít thở nền văn minh Hy Lạp. Ông đã
đưa ra nhiều nhận xét mới về đời sống
gia đình (25,1-26,18). Ông đã đề cập
tới nhiều nét trong đời sống xã hội, mà nổi
bật nhất là nền mậu dịch, thương mại
thời bấy giờ (26,28-27,15).
Ðây là điểm bén nhậy đối
với người Do Thái. Họ biết
làm ăn. Có thể nói họ có máu buôn bán.
Việc tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp
đã tạo nên nơi các cộng đồng Israen nhiều
trung tâm thương mại nổi tiếng.
Tại đây người Do Thái
buôn bán với dân ngoại. Họ không còn
sợ luật pháp và để ý đến các tiêu chuẩn
đạo đức nữa. Có thể nói họ như
cảm thấy được ra khỏi đạo và các ràng
buộc xưa nay của lương tâm công giáo. Chỉ còn
một luật chi phối công việc làm ăn
của họ là: mua rẻ bán đắt. Và cho
được như vậy, môi mép và lời nói là phương
tiện được sử dụng tối đa. Các
tiên tri đã nhiều lần lên án các thói
buôn gian bán lận và đời sống bê bối của các
thương gia. Ben Sira cũng nhất trí cảnh cáo: giữa
bán và mua tội chen vào giữa. Ông không thích doanh thương vì buôn bán làm sao vô tội?
Nhưng ông chẳng cấm được.
Và dường như ông biết lời khuyên
chẳng công hiệu gì nơi tại kẻ đếm tiền.
Có lẽ vì vậy ông quay sang nói với khách hàng, với những
người dân vô tội phải đến mua ở các cửa
tiệm. Ông thấy họ nhiều khi đã trở thành mồi
ngon của các con buôn. Và như vậy chỉ vì
họ dễ bị lời nói mua chuộc. Vừa nghe
con buôn quảng cáo hàng hóa là họ đã sa
bẫy. Thế nên trong đoạn văn vắn tắt này
Ben Sira khuyên người ta đừng vội tin lời nói
của con buôn. Hãy để cho nó nói mãi đi,
cuối cùng điều nó che giấu sẽ lòi ra. Chẳng
khác gì cứ sàng mãi, trấu bẩn sẽ còn lại và gạo
sẽ lọt xuống... Và cũng như cứ
đi qua lò, thì đồ sành thợ gốm sẽ
được hay không. Hoặc cũng như phải
chờ khi có quả mới biết cây dại hay cây tốt.
Và Ben Sira kết luận cứ thong thả nghe lời biện
luận của con người sẽ biết tâm tư của
họ. Thành ra không nên vội phán đoán một
ai trước khi nghe nhiều lời người đó nói.
Như vậy từ thái độ phải có
đối với người mua bán, tác giả đã dẫn
chúng ta sang thái độ phải có đối với mọi
người: đừng vội tin ai và phê phán ai trước
khi nghe người đó nói, bởi vì tâm tư con người
lộ bày khi biện luận. Tác giả có lạc
quan quá không? Có thể luôn luôn căn cứ vào lời nói
của con người mà đánh giá họ không, cho dù không phải
là tin vào một lời, nhưng là đã nghe người ấy
luận lý rất nhiều? Tác giả Luca dường
như không hoàn toàn tin như vậy. Người
đưa thêm một số tiêu chuẩn nữa để hiểu
biết con người như trong bài Tin Mừng sau đây.
2. Việc làm
Chúng ta bảo Luca là tác giả của bài Tin Mừng
này, mặc dù đây là Lời Chúa đã thốt ra từ miệng
Chúa Giêsu Kitô. Chắc Chúa đã không nói tất cả những
lời này một lần và không theo một
thứ tự như ở đây. Rõ ràng chẳng có một
thứ tự luận lý nào để khẳng định
Chúa đã nói luôn một lần những điều ít ăn
khớp với nhau. Cũng như tư tưởng này và những
câu văn như thế, trong sách Tin Mừng Mátthêu chẳng
hạn, lại nằm ở những chỗ khác và phục
vụ những chủ đề khác. Như vậy
chúng ta có thể nói được rằng, tác giả Luca đã
dùng những câu Chúa nói ở những trường hợp
khác nhau đem xếp cả vào chỗ này để phục
vụ một chủ đề nào đấy.
Nếu chúng ta còn nhớ, thì Chúa nhật trước
chúng ta cũng đã đọc sách Tin Mừng của Luca. Ðoạn
trích hôm nay tiếp theo bài đọc lần
trước. Thế mà hôm đó chúng ta đã thấy
rằng Chúa dạy chúng ta phải yêu thù địch, không còn
được duy trì đầu óc kỳ thị và phân biệt,
và phải coi mọi người là con cái một Cha trên trời
và hết thảy là anh em của nhau. Hôm
nay dường như tác giả Luca muốn tiếp nối
tư tưởng trên và nói đến thái độ bác ái
ngay trong cộng đoàn các môn đồ của Chúa, tức
là chính trong lòng Hội Thánh và Giáo Hội.
Chắc chắn câu đầu tiên trong bài Tin
Mừng hôm nay phải hiểu về các người lãnh đạo
cộng đoàn tức là hàng giáo sĩ: linh mục, giám mục
hiện nay của chúng ta. Thực ra câu văn
có thể dùng trong một trường hợp khác. Và trong Mátthêu câu này đã được tuyên bố
về giới tư tế, lãnh đạo trong Do Thái giáo.
Họ là những người mù dẫn đàng
cho người mù. Nguyên khởi đó chỉ
là một câu cách ngôn. Chúa Giêsu có lần dùng
để nói về luật sĩ và biệt phái vì họ không
biết mở mắt đón nhận đường lối
của Thiên Chúa đang bày tỏ nơi công việc của Ðấng
Ngài sai đến. Họ ở cương
vị lãnh đạo mà mù thì dẫn đàng chỉ lối
cho người khác sao được?
Tác giả Luca nhớ có lần
Chúa nói như vậy. Nay đang viết
những lời Người khuyên bảo môn đồ, Luca
sực nhớ câu đó. Người thấy
nó vẫn hợp để nói với giới lãnh đạo
trong Hội Thánh. Những người này cần nhớ
rằng: ở cương vị lãnh đạo, họ phải
sáng suốt. Ðó là thái độ bác ái quan trọng
nhất họ phải thi hành cho những người được
trao phó cho họ.
Nhưng trong Hội Thánh, không phải
chỉ có các nhà lãnh đạo. Ðại bộ
phận Dân Chúa được gọi là môn đồ.
Và tư cách đầu tiên, thái độ bác ái
cơ sở của người môn đồ nằm trong
quan hệ với Thầy mình. Môn đồ
không lẽ hơn Thầy, hoàn bị là mọi kẻ sẽ
được như Thầy. Lời này thoạt nghe
có vẻ chua chát, nhưng nếu nhớ Thầy của các
môn đồ chính là Chúa Giêsu Kitô, thì đây là cả một
lý tưởng cao cả: môn đồ phải cố gắng
nên hoàn bị như Thầy.
Sau hai câu nói với hai hạng
người trong Hội Thánh, những câu sau có thể nói, mới
thật sự vào đề và muốn dạy dỗ mọi
thành phần trong cộng đoàn tín hữu. Họ không nên để ý đến khuyết điểm
của anh em trước, nhưng trước hết hãy muốn
nhờ anh em giúp mình sửa đổi tính hư nết xấu.
Nếu làm như vậy chắc chắn sẽ
không có cãi cọ bất bình; một cộng đoàn như thế
chắc chắn mỗi ngày một hoàn toàn hơn. Ai mà không có cảm tình yêu thương đối với
người muốn sửa mình? Bác ái cộng
đoàn được xây dựng chắc chắn nhất,
khi các phần tử trong cộng đoàn luôn ý thức bổn
phận phải sửa mình, trước khi nói đến các
khuyết điểm của anh em. Nhất là khi trong cộng
đoàn ấy, ai cũng theo gương
Chúa mà sửa mình như trên vừa nói: hoàn bị là mọi
kẻ sẽ được như Thầy?
Thế nên người tốt
phải chứng tỏ qua việc làm. Chúng ta đừng
tưởng ở đây Luca mâu thuẫn hoặc nói khác với
tác giả sách Huấn Ca. Cả hai đã trích câu tục ngữ:
Xem quả biết cây. Nơi tác giả sách Huấn Ca, lời
nói và biện luận là quả do tâm tư con người. Luca
công nhận điều ấy vì ở đây người cũng
viết: lòng ứa đầy những gì thì miệng nói ra.
Nhưng lời nói nơi Luca không phải chỉ
là các âm, các tiếng, mà còn là tất cả mọi việc mà
con người làm. Các việc này cũng
bày tỏ "lòng" người ta, vì "người lành
tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người dữ
tự tính ác mà đem ra sự ác".
Như vậy Luca muốn đầy
đủ hơn tác giả sách Huấn ca. Người khiến
chúng ta nên giải thích bài sách này một cách rộng rãi nhưng
vẫn hợp ý với tác giả. Như
chúng ta biết, ông viết những lời trên là để
cảnh giác con cái Israen đề phòng sự gian dối của
phường mua bán. Và sở dĩ như
vậy vì ông thấy quá nhiều bất công và tội lỗi
trong việc mua đi bán lại. Ông muốn
xã hội công bằng huynh đệ hơn.
Vì thế chúng ta có thể hiểu
bài sách Cựu Ước hôm nay về lòng bác ái. Cũng như bài Tin Mừng vậy. Nhưng ở một mức độ sâu sắc
hơn. Tác giả sách Huấn Ca thấy
thiếu bác ái trong việc mua bán. Tác giả Luca còn nhìn
thấy trong thái độ người ta hay phê bình và chỉ
trích nhau. Cuối cùng cả hai đều công
nhận phải sửa chữa từ tâm tư và từ "lòng"
con người. Do đó muốn biết người
tốt, phải xem lời nói, phải xét việc làm. Nhưng muốn có lời tốt và việc lành, phải
sửa đổi tâm tư và lòng trí, là con người bên
trong của chúng ta. Có thể làm công việc
này không?
3. Ơn Chúa
Theo thánh Phaolô trong bài thư
hôm nay, khi xác hay chết này mặc lấy sự trường
sinh, thì bấy giờ con người mới thực sự
công chính. Và đức bác ái yêu thương mới
trọn vẹn. Ðối với chúng ta dĩ
nhiên là như vậy rồi. Nhưng các độc giả
trực tiếp của thánh Tông đồ, tức là những
người Côrintô thời bấy giờ, chân lý ấy nên được
giải thích rõ ràng hơn. Bởi vì họ là những
người Hy lạp tòng giáo. Ít ra họ là các tín hữu
mới mẻ đang hít thở bầu khí văn hóa Hy Lạp.
Những người này quan niệm xác và hồn nơi con
người là hai yếu tố rất dị biệt, chẳng
thể hòa hợp với nhau. Hồn ở trong xác như ở
trong tù, chỉ chờ đợi ngày thoát ra khỏi xác để
được trở về sống như những thần
linh, bởi vì trước kia linh hồn
cùng ở chung với các thần thánh, nhưng đã sa đọa
nên rơi vào xác thịt và bị giam ở đó. Thành ra bao lâu còn sống trong xác thể, linh hồn
còn khổ sở và ấm ức. Con người không
có sự hòa hợp ngay trong chính mình, nên cũng chẳng có hòa
hợp được trong xã hội. Linh hồn
đợi ngày giải thoát ra khỏi thân xác.
Quan niệm như vậy không hợp
với đức tin. Ðành rằng xác thịt con người
hiện nay là mồi cho sự chết. Nhưng
chết không phải là hết. Nhờ sự sống lại
của Chúa Giêsu Kitô, thân xác con người cũng sẽ sống
lại. Không phải để rồi lại
sống như trước đây, nhưng để trường
sinh bất tử như "thần thánh". Và sở
dĩ như vậy là vì xác thể con người sẽ mặc
lấy sự bất hoại, là đặc tính của Thiên
Chúa. Lúc ấy con người sẽ ca khúc khải hoàn chế
nhạo sự chết: Tử thần hỡi, đắc
thắng của ngươi đâu? Tử thần hỡi,
nọc của ngươi đâu, ngươi đã dùng tội
lỗi làm nọc sát hại con người. Và
tội lỗi đã tỏ ra mãnh liệt trong chế độ
Lề luật, toàn là cấm đoán mà không có cứu độ.
Nhưng nay Chúa Giêsu Kitô đã đem ơn cứu
độ đến, tẩy sạch tội lỗi, làm vô hiệu
nọc của tử thần, khiến con người có
Ơn Chúa không còn chết nữa.
Như vậy ơn của Chúa Giêsu Kitô cứu
sống chúng ta khi tiêu diệt tội lỗi, và ban cho ta sự
sống mới, sự sống của Thiên Chúa thay thế sự
sống của xác thịt tội lỗi trước đây.
Do đó ai muốn nên công chính, muốn sống bác ái yêu thương
phải để cho Ơn của Chúa Giêsu Kitô biến đổi
tâm tư và lòng trí. Và công việc này phải làm
trong kiên nhẫn, không nao núng. Phải nhờ
làm thêm nhiều việc lành, mà thánh Phaolô gọi là việc của
Chúa.
Như vậy, người tốt
không phải ở lời nói, nhưng ở việc làm, và nói
rõ hơn, ở việc làm của Chúa. Ơn của Chúa
là yếu tố cuối cùng quyết định sự công
chính của con người chúng ta vậy. Và
ơn của Chúa phong phú nơi các Bí Tích, đặc biệt
trong mầu nhiệm thánh lễ. Nơi đây
Chúa ban cho chúng ta bánh nuôi sống và của uống thiêng liêng,
để chúng ta có sức sống của Thiên Chúa, làm được
các việc Chúa là các việc lành, hầu tâm tư, lòng trí chúng
ta dần dần được cải hóa nên công chính.
Chúng ta sẽ có những lời nói việc làm
đầy bác ái yêu thương. Không những
đời sống bản thân sẽ đạo đức
hơn mà đời sống xã hội cũng công chính hơn.
Bài thư Phaolô giúp ta đạt được
những điều nhắn nhủ trong hai bài sách Huấn
Ca và Tin Mừng vậy.
|