KÍNH MỪNG MẸ
MẸ XIN VÂNG TRỞ THÀNH MẸ THIÊN CHÚA
CON HẠNH PHÚC MỪNG KÍNH TRINH NỮ VƯƠNG
Sau khi được sứ thần truyền tin, Đức
Mẹ đi thăm bà chị họ Êlidabét, mẹ của Thánh Gioan Tẩy Giả, và bà Êlidabét đã tuyên xưng
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa lần đầu tiên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc
1:43). Thế nhưng mãi
đến năm 431, Giáo Hội mới định tín
“Đức Trinh Nữ
Maria là Mẹ Thiên
Chúa” qua Công Đồng Êphêsô,
ngày 22 tháng 6.
Niềm
hạnh phúc dâng cao trong ngày đầu năm vì chúng ta được bày tỏ lòng thảo kính đối với Mẹ Thiên
Chúa. Trong cuộc sống đời
thường, đứa con rất cần mẹ, vì có
mẹ là có tất cả, có mẹ thì con luôn cảm thấy bình an, dù cho chuyện gì xảy ra xung quanh, kể cả sự nguy
hiểm.
Con người
rất coi trọng sự khởi đầu, với công
việc thì gọi là khai trương. Ngày
đầu năm dương
lịch là ngày Tết,
là ngày cầu cho thế giới
được hưởng nền hòa bình đích thực của Thiên Chúa, và đặc biệt là ngày lễ kính mừng Thánh Mẫu Thiên Chúa – cũng là Mẹ của mọi tín
nhân Công giáo. Trong đời
thường, có mẹ
là có niềm vui và an
toàn đối với con cái. Mẹ là tất
cả của con, là “sợi
dây” đưa cánh-diều-con
bay vút lên cao và vươn ra xa. Mẹ thật là kỳ diệu và tuyệt vời!
Ai cũng có mẹ.
Các danh nhân cảm nhận
sâu sắc và diễn tả Tình Mẹ theo cảm nhận riêng của mỗi người, Florian nhận
định: “Nơi ẩn náu yên ổn nhất là
lòng mẹ”. Ở bên mẹ thì cảm thấy an toàn. Thật vậy, những đứa con ngoan
hiền luôn nghĩ về mẹ vì mẹ quá tuyệt vời: “Trên
môi và trong trái tim đứa
con: Mẹ chính là tên của Thượng Đế” (Thackeray). Tương tự, mẹ cũng
luôn nghĩ về con vì con
là “cục vàng”
của mẹ: “Tương lai của
con là công trình của mẹ” (Napoléon I). Mẹ chứng tỏ công
trình của Tạo Hóa
dành tặng cho con người:
“Trái tim người mẹ là kiệt tác của Thượng Đế” (Gretry). Người mẹ sinh học chỉ
là phàm nhân mà chúng ta cũng không thể hiểu hết: “Lòng mẹ là vực sâu mà dưới đáy luôn có sự khoan dung” (Balze). Thế thì chúng ta chẳng bao giờ hiểu hết tình
thương bao la và sâu thẳm
của Người Mẹ tâm linh – Đức Maria. Đặc biệt là, trước Tôn Nhan Thiên Chúa, Đức Mẹ luôn bênh vực cho chúng ta.
Đấng
toàn năng là Thiên Chúa đã tạo nên Người Mẹ thật độc đáo,
chẳng bao giờ chúng
ta có thể hiểu được
Tình Mẫu Tử. Từ
cổ chí kim, biết bao tác phẩm nghệ thuật diễn tả Tình Mẹ nhưng chẳng bao giờ có thể diễn tả trọn vẹn. Cha và mẹ đều có vị trí riêng, nhưng vị trí của mẹ luôn có điều đặc biệt. Có lẽ đặc biệt vì lý
do kỳ diệu mà thi
sĩ Chế Lan Viên
đã mô tả: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ, đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con” (thi phẩm “Con Cò”). Con vui thì mẹ mừng, nhưng con đau một thì mẹ đau mười. Có mẹ thật hạnh phúc,
nhưng thật bất hạnh
cho những ai chịu mồ côi: “Mồ côi cha là một lần mồ côi, mồ côi mẹ là bảy lần mồ côi”. Thảo nào tục ngữ nói: “Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá
đầu đường”. Mồ côi mẹ khổ lắm, khó có
thể tưởng tượng mức
độ khổ của kẻ mồ côi,
nhất là đối với những đứa trẻ!
Trong “bản
giao hưởng cuộc đời”, Tình Mẹ như nốt trầm êm ả, có thể không được lưu ý nhưng lại vô cùng quan trọng, vì đó là nốt nền để làm nổi bật những nốt khác,
và làm nổi bật cả
giai điệu: “Lòng mẹ bao la như biển Thái
Bình dạt dào…”
(Lòng Mẹ, cố NS Y Vân).
Cách mô tả của ông về người mẹ đơn giản
mà sâu sắc lắm.
Từ ngàn xưa,
Đức Chúa
đã căn dặn ông
Môsê: “Hãy nói với
A-ha-ron và các con nó rằng: Khi chúc lành cho con cái Ít-ra-en,
anh em hãy nói thế
này: Nguyện
Đức Chúa CHÚC LÀNH và GÌN GIỮ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi
nét mặt nhìn
đến anh (em) và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Đức Chúa
GHÉ MẮT NHÌN và
BAN BÌNH AN cho anh em! Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh
Ta, và Ta, Ta sẽ CHÚC LÀNH cho chúng” (Ds
6:22-27). Lời chúc
bình an luôn được
sử dụng nhiều, cả trong tôn giáo lẫn xã hội. Lời chúc lành đẹp nhất chắc chắn là lời chúc bình an: “BÌNH AN dưới thế cho người thiện tâm” (Lc
2:14). Đó là sự bình
an đích thực của Thiên
Chúa, không phải của thế
gian. Vì thiếu bình
an nên cảm thấy bồn
chồn, thế nên chúng ta luôn cầu xin bình an: “Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin ban BÌNH
AN cho chúng con”. Có Chúa thì mới cảm thấy bình
an: “Tâm hồn con khắc
khoải không ngừng cho đến khi được nghỉ
yên trong Chúa” (Thánh Augustinô).
Tai ương và chiến tranh rất nguy hiểm, vì thế mà cần
hòa bình, dù là hòa bình về
phương diện xã hội
hoặc tinh thần, nhưng phải là sự hòa bình đích thực. Hòa bình trọn vẹn phải là hòa
bình cả thể lý lẫn tinh thần. Rất cần!
Thành tâm và tha thiết, Thánh Vịnh gia miệt mài cầu xin: “Nguyện Chúa Trời dủ thương và
chúc phúc, xin toả ánh
tôn nhan rạng ngời trên
chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối Chúa,
và muôn nước biết ơn
cứu độ của Ngài” (Tv
67:2-3). Ước nguyện là một dạng cầu chúc, ước cho chính mình và chúc cho người khác: “Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài! Ước gì muôn nước reo hò mừng rỡ, vì
Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công
minh, Người cai trị
muôn nước
theo đường chính trực và lãnh đạo muôn dân trên mặt đất này. Ước gì chư dân cảm tạ Ngài, lạy Thiên Chúa, chư dân phải đồng thanh cảm tạ Ngài” (Tv
67:4-6). Ước nguyện cũng
là một dạng cầu
nguyện, tất nhiên cũng phải thành tâm thiện chí.
Trong suốt
thời gian Mùa Vọng,
chúng ta tha thiết cầu
xin trời cao đổ Sương Thánh
xuống và ngàn mây mưa Đấng Cứu Tinh, và rồi chúng ta đã được thỏa nguyện ngay trong đêm
Giáng Sinh: “Đất
đã sinh ra mùa màng hoa trái: Chúa Trời, Chúa chúng ta, đã ban phúc
lộc” (Tv 67:7). Đấng Emmanuel đang ở với
chúng ta. Nhưng đừng
dừng lại ở đó, lo hưởng thụ mà quên cầu nguyện. Con người yếu
đuối, rất dễ “ngủ quên trong chiến thắng”, vì thế mà chúng ta vẫn phải luôn tỉnh thức và cầu xin không ngừng: “Nguyện Chúa Trời ban phúc lộc cho ta! Ước chi toàn
cõi đất kính sợ Người!” (Tv 67:8). Tuy nhiên, Mùa Vọng cuộc đời chưa chấm
dứt, vẫn tiếp tục... và rồi sẽ đến hồi kết thúc.
Lễ Giáng
Sinh chứng tỏ rằng
tất cả các lời
tiên tri đã ứng
nghiệm rạch ròi, chính xác, hai năm rõ mười: “Thuở xưa, nhiều lần
nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán
dạy cha ông,
nhưng đến
thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con”
(Dt 1:1-2).
Vào thời
điểm này, chúng ta đang được sống trong thế kỷ XXI, thời
kỳ khoa học tiến bộ, nhưng lại là thời kỳ cánh chung, thời kỳ viên mãn. Thánh Phaolô cho biết: “Khi thời gian tới hồi viên
mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, SINH LÀM CON MỘT NGƯỜI ĐÀN
BÀ, và sống dưới Lề
Luật, để chuộc những ai sống dưới
Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm
nghĩa tử. Để
chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã
sai Thần Khí của Con mình đến NGỰ TRONG LÒNG
ANH EM mà kêu lên: Áp-ba, Cha ơi!” (Gl 4:4-6). Không gì có thể so sánh với niềm hạnh phúc
quá lớn này. Tại sao không thể chứ?
Theo “nguyên tắc
tự nhiên”, cái gì cũng có lý do và nguyên nhân.
Hãy nghe Thánh Phaolô giải
thích: “Anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là
con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên
Chúa” (Gl 4:7). Hạnh phúc
tăng theo cấp số nhân,
vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn đáng án tử, thế mà lại được trắng án,
đặc biệt hơn
nữa là chúng ta được
làm con cái của Thiên
Chúa và được kế thừa
di sản thánh: “Người yêu đến nỗi cho chúng
ta được gọi là con
Thiên Chúa, mà thực
sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1
Ga 3:1). Chuyện như không tưởng mà lại là sự thật trăm phần trăm, không hề mơ hồ, không hề ảo tưởng.
Thiên Chúa thương ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhất là Bà
Tổ Êva – Mẹ của chúng sinh (St 3:20), nhưng
chúng ta hóa “mồ côi”
vì Bà bất tuân lệnh Thiên Chúa. Tình thương
của Thiên Chúa không suy giảm, Ngài lại ban cho chúng ta Người Mẹ thứ nhì là
Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa. Không chỉ vậy, Ngài còn ban cho chúng ta Người Mẹ thứ ba là Người Mẹ sinh học của mỗi người.
Kế hoạch nhiệm mầu của Thiên
Chúa kỳ diệu, chúng
ta không thể hiểu thấu.
Trình thuật
Lc 2:16-21 đề cập việc các mục đồng hối hả đến
thờ lạy Vương Nhi Giêsu, họ cũng gặp Đức Mẹ –
Thánh Mẫu Thiên
Chúa, với đức tính
nhu mì khác lạ, và gặp Đức Dưỡng Phụ Giuse
rất ít nói. Họ tận mắt
tỏ tường thấy Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ, sự thật chứ chẳng mơ
hồ hoặc chiêm bao. Chắc
chắn lúc đó lũ trẻ chăn chiên léo nhéo nói cười vì thích thú, và cũng nựng Bé Giêsu nhiều lắm. Ôi, ai cũng dễ thương quá chừng!
Thấy
mà thương, Thánh Gia nghèo khó quá, chắc hẳn các mục đồng nghèo cũng
cảm thấy được an ủi
và chấp nhận kiếp
nghèo như Chúa muốn.
Vâng, họ chỉ là những người chăn chiên
thuê, nghèo lắm, khổ lắm,
cựa lắm, mệt lắm. Nhưng họ thực sự
diễm phúc vì được trở nên các chứng nhân đầu tiên về Con Thiên Chúa giáng sinh. Vấn đề quan trọng là các
mục đồng đã TIN
ngay và TIN thật lòng.
Nếu là chúng ta, liệu lòng tin của chúng ta có đủ mạnh như họ? Đơn giản
mà nhiêu khê, chưa chắc
có thể tin được
như họ!
Sau đó, các mục
đồng trở về và kể lại điều đã
được thiên thần nói với họ về Hài
Nhi này. Dân nghèo chất phác, mộc mạc, vô tư và đơn giản, không biết dựng chuyện, giấu giếm
hoặc lọc lừa, cứ có sao nói vậy. Nghe những người chăn chiên
thuật chuyện, ai cũng ngạc
nhiên. Mà ngạc nhiên cũng
phải thôi, chứ không sao được, bởi vì chuyện kể của các mục đồng quá lạ lùng, ngoài sức tưởng tượng. Thế nhưng
những người nghe kể cũng đã tin
câu chuyện của các mục đồng là thật. Ôi, họ cũng là những người hạnh phúc biết bao!
Mọi thứ có vẻ “bình thường”, nhưng có điều “khác thường” ở Người Mẹ Trẻ
Maria. Kinh Thánh cho biết
“điều lạ” đó: “Bà Maria hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy,
và suy đi nghĩ lại
trong lòng”. Rõ ràng Đức Mẹ ít nói lắm, nhưng chắc là hay
cười lắm. Thế
thì hiền quá chừng! Đúng thế chứ chẳng sai đâu, bởi vì khi hiện ra với cô bé Bernadette ở Lộ Đức (1858), Đức Mẹ
cũng hay cười.
Thánh Luca cho biết
rằng khi các người
chăn chiên ra về,
họ vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã
được mắt thấy
tai nghe, đúng như đã được nói với họ. Đức tin làm
cho họ vui mừng và họ sẵn sàng loan báo Tin Mừng cho người khác...
Và Thánh sử
Luca tường thuật thêm chi tiết khác: “Khi Hài Nhi được đủ tám
ngày, nghĩa là đến
lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên
cho Hài Nhi là Giêsu, đó là tên mà sứ thần đã
đặt cho Người
trước khi Người được thụ thai trong
lòng mẹ”. Mọi điều diễn biến hoàn
toàn ứng nghiệm như
lời tiên tri từ
trước, đúng từng
chi tiết, từng dấu chấm và dấu phẩy.
Ai cũng có mẹ
và cũng đã và đang cảm nhận tình mẫu tử. Người mẹ lạ vô
cùng, Tình Mẹ kỳ diệu
lắm. Khi Thiên Chúa muốn
Con Một Giêsu giáng sinh làm người, Ngài biết đường đời gian nan lắm,
và Ngài đã tiền
định cho Con Trẻ Giêsu một Người Mẹ. Chúng
ta thật hạnh phúc vì
cũng được tiền
định làm con cái của Đức Trinh Nữ Maria – Mẹ Thiên Chúa. Trong niềm hân hoan Chúa giáng sinh,
chúng ta hãy hát lên Bài Ca Ngợi
Khen Magnificat của Đức Mẹ, và
Kinh Hòa Bình của Thánh
Phanxicô Assisi, đặc biệt
là hôm nay – ngày cầu
bình an cho toàn thế
giới, và cầu
xin cho trái đất này
duy trì môi sinh để xứng
đáng là Hành Tinh Xanh, nơi Thiên Chúa giao cho chúng ta có trách
nhiệm phát triển và bảo vệ.
Lạy
Thiên Chúa duy nhất
của chúng con, xin giúp chúng con biết chu toàn lề luật của Ngài và
bổn phận làm
con. Xin giúp chúng con luôn biết
tôn kính song thân, người đại diện Ngài, bằng cách giữ trọn hiếu thảo theo gương
Thánh Tử Giêsu,
và xin làm cho chúng con trở
nên khí cụ
bình an của
Ngài.
Lạy
Thánh Mẫu Thiên
Chúa và Hiền Mẫu của
chúng con, xin giúp chúng con chuyên cần thi hành những gì Mẹ nhắn nhủ, đặc biệt là ba
Mệnh Lệnh Fátima,
xin Mẹ cầu cho chúng
con trước mặt
Thiên Chúa, bây giờ
và mai sau. Chúng con cầu
xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
TRẦM
THIÊN THU
†
MAGNIFICAT: https://www.youtube.com/watch?v=cpxRpBwWEA4
|