VỢ NGƯỜI CHẾT
Chuyện đã xảy ra cách đây gần một thế kỷ…
Tại một hải cảng thuộc vịnh
Providence, thủ phủ bang Rhode Island, vào một chiều thu buồn ảm đạm,
những hạt mưa thu không ngừng rơi rả rích.
Hai cô gái còn rất trẻ đẹp
ngồi cạnh nhau bên lò sưởi và an ủi nhau cho vơi đi nỗi đau thương.
Họ ở trong một ngôi nhà nhỏ đơn sơ, chỉ có vài
đồ vặt vãnh
được mang đến
từ Ấn Độ và được sắp xếp gọn gàng.
Cửa sổ căn phòng
trông ra vùng biển rộng bao la.
Họ là vợ của hai anh em
vừa mới mất trong hai ngày liền. Người anh ra đi trong một
cuộc tấn công bất
ngờ của quân đội
Canada. Người em mất tích trên Đại Tây Dương trong một cơn giông bão mạnh. Dường như cảnh vật
cũng động lòng thương cảm cho số phận hai goá phụ trẻ này. Lời cầu nguyện thầm thì của cha mẹ mong cho hai người con bất
hạnh đã ra đi sẽ hưởng hạnh phúc vĩnh
hằng bên Chúa cũng không làm dịu đi nỗi đau đớn khôn xiết của hai người vợ. Những
giọt nước mắt cứ lăn dài
trên gò má.
Họ ngồi đó. Lặng lẽ. Nước mắt như
đã cạn. Nước mắt
chảy ngược vào trong. Bóng họ chập lại với nhau, chập
chờn trong ánh lửa
đỏ mờ phát ra từ
lò sưởi.
Một thời gian rất lâu
sau đó, người chị dâu là
Mary đứng dậy. Cô hồi tưởng về những lời
răn của Chúa. Cô còn có trách nhiệm và bổn phận của mình
đối với người
em dâu và cả với chính
mình. Cô phải mạnh mẽ
lên, dù nỗi đau thương
mất mát vừa rồi còn
làm cô tưởng như không sống nổi. Đặt mâm cơm
đạm bạc lên
bàn, cô đưa tay nắm
tay em dâu vẫn đang ngồi
bất động. Cô nói:
– Margaret, hôm nay
em chưa ăn một miếng
nào vô bụng. Chị xin em,
em đứng lên đi, cùng chị tạ ơn Chúa đã ban cho
chúng ta bữa tối này.
Người em dâu dường như không thể kìm lại được nỗi đau vô bờ đang cuồn cuộn trong lòng.
Những dòng nước mắt lại tuôn
trào như suối. Cô gào
khóc vật vã:
– Chẳng còn gì hết, chẳng còn hạnh phúc nào dành cho em nữa. Không có anh ấy, làm sao em sống nổi. Em không muốn ăn gì, cũng không thiết sống nữa. Chị cứ mặc
em!
Sau cơn xúc
động mạnh, cô em
dần dần bình
tâm lại. Thời gian chầm
chậm trôi. Cũng đến lúc họ phải đi nằm vì mệt. Trong lò sưởi chỉ còn lại đống tro tàn.
Ánh sáng từ ngọn đèn
duy nhất hắt vào
hai phòng ngủ còn
để cửa mở.
Bên ngoài, mưa vẫn
rơi đều đều và đơn điệu như bản trường ca buồn
thảm.
Mary đã quen chịu đựng nên nhanh chóng chìm
vào giấc ngủ, còn
Margaret vẫn thổn thức
trong màn đêm sâu thẳm
và tĩnh mịch vô thường. Cô nằm nghe tiếng mưa nối tiếp
nhau rơi đều. Lòng cô vẫn khắc khoải. Mắt cô
nhìn vào khoảng vô
định trên bức tường trước mặt. Ánh
sáng yếu ớt từ
ngọn đèn in lên tường bóng dáng những kỷ niệm không
bao giờ quên.
Hai chiếc ghế đối
diện nhau đặt cạnh lò sưởi. Hai người đàn
ông thường ngồi đó trò
chuyện và âu
yếm ngắm nhìn vợ mình. Margaret như bị cuốn vào vòng xoáy của quá khứ hạnh phúc. Nhưng nó càng làm cô
thấy mình đau đớn và bất hạnh.
Bỗng Margaret nghe thấy tiếng gõ cửa nhẹ. Cô cảm thấy khó chịu khi nhớ lại ngày
hôm qua, cô đã ngồi hàng
giờ chờ đợi tin tức của
chồng để rồi sau đó chết lặng đi. Không lẽ còn điều gì tồi tệ hơn sao?
Hơi thở cô bỗng
trở nên gấp gáp vì
những tiếng gọi văng vẳng
vọng vào tai cô. Tiếng gõ lại vang lên một cách đều đều chậm chạp như thể
một vật gì rất
êm đập vào
cánh cửa. Những tiếng
gọi như lẫn vào tiếng gió sau khi truyền qua mấy bức tường dày.
Margaret nhìn sang phòng chị
dâu, thấy chị vẫn
nằm yên trong giấc ngủ
say. Cô ngồi dậy, đặt
nhẹ chân xuống
nền nhà. Cô sửa
lại mái tóc và áo quần
rồi rón rén bước đi.
Tay cầm ngọn đèn, cô đi về phía cửa sổ, nơi có thể nhìn xuống cửa chính. Cô căng thẳng thò đầu ra ngoài, bầu không khí ẩm ướt phả vào
cô. Ngọn đèn
trong tay cô chiếu sáng
toàn bộ phía trước nhà. Ánh sáng như tan ra dưới những vũng nước mưa còn
đọng lại. Ánh
sáng chỉ đủ để
soi rõ một người
đàn ông đội chiếc
mũ rộng vành, mặc
chiếc áo khoác màu đen đang nép vào mái hiên.
Xung quanh ông ta là chập chùng
bóng tối. Margaret nhận
ra đó là ông chủ khách sạn hiền lành của thị trấn. Cô nói
vọng xuống qua cửa sổ:
– Có việc gì thế, ông Parker?
Tiếng người đàn
ông vọng lên:
– Có một người đưa thư vừa
đến đây chừng
nửa giờ.
Ngưng một lát, ông Parker nói tiếp:
– Anh ta đi từ biên giới phía Đông để mang thư về trình
chính phủ và quốc hội. Anh ấy nghỉ tạm ở
nhà tôi. Tôi có hỏi
anh ta về tình hình chiến trận ở biên giới. Rất khả quan, chồng cô vẫn khoẻ mạnh. Tôi vội chạy tới để thông
báo cho cô biết và chắc là cô sẽ không phiền vì bị thức giấc chứ? Thôi,
chúc cô ngủ ngon nha!
Rồi người đàn
ông tốt bụng bước
đi. Ánh sáng mờ ảo dọc
con phố, những hình ảnh chắp vá như những mảnh vụn của thế giới,
hoặc là thứ ánh
sáng từ thuở hồng
hoang, như cuộc rong chơi của ký ức về miền quá khứ xa ngái. Nhưng Margaret không
còn đứng đó nữa. Niềm vui vụt loé
sáng trong tim cô. Cảm giác
lâng lâng đến nghẹt thở.
Cô chạy như bay đến
phòng ngủ của Mary
định báo cho chị
dâu tin mừng này.
Nhưng cô bỗng khựng lại
ở cửa phòng. Cô nghĩ: “Tội nghiệp chị Mary! Sao mình
có thể gọi chị ấy
dậy để thêm đau đớn vì hạnh phúc của mình? Không, mình sẽ giữ kín điều này”.
Cô nhẹ nhàng bước đến bên giường của Mary. Chị đang ngủ
thật bình yên, mặt
chị như chìm sâu vào chiếc gối để che giấu những
giọt nước nước mắt. Tĩnh lặng như
mặt nước hồ sâu thẳm. Margaret nhẹ bước về phòng.
Đầu óc cô
lẫn lộn giữa niềm vui và nỗi buồn. Ngoài kia gió vẫn thổi mạnh hắt vào cửa sổ, giá buốt...
Mary giật mình tỉnh giấc giữa đêm
khuya sâu thẳm. Một giấc
mơ đang đưa chị đến miền ký ức sáng lung linh. Bỗng
có tiếng gõ cửa gấp gáp mà lúc đầu chị cứ tưởng đó là
tiếng thở của mình.
Chị chẳng chút bận tâm, chị vẫn đắm chìm
vào giấc mơ có nụ cười của anh ở đó. Nhưng
tiếng gõ cửa lại tiếp tục vang lên hối hả, kéo chị về lại thực tại, sự
đau đớn hiển hiện như vết dao đâm
sâu vào trái tim chị lại tiếp
tục ứa máu. Chị
vẫn nhắm mắt, cố ru mình vào giấc mơ để có thể suốt đời sống hạnh
phúc với anh. Tiếng gõ cửa lại tiếp tục vang lên.
Mary sợ em dâu sẽ thức giấc, chị dậy xách
đèn hấp tấp chạy
đến bên cửa
sổ. Mary hỏi với giọng hơi run:
– Ai đó?
Lúc này trời đã tạnh mưa. Ánh trăng xuyên qua những đám mây đen đang cuồn cuộn, chiếu lên những mái nhà còn đọng nước bằng thứ ánh
sáng bàng bạc huyền ảo.
Một chàng trai trẻ
mặc đồ thuỷ thủ còn ướt sũng nước như thể anh
vừa trở về từ biển cả. Anh đứng
đơn độc dưới cửa sổ, trong khoảng
không gian tĩnh mịch.
Mary nhận ra chàng trai là chàng thuỷ thủ mưu sinh bằng những
chuyến hải hành ngắn
dọc bờ biển, chị không quên anh đã từng ngỏ lời yêu chị trước khi chị lấy chồng.
Cô gọi chàng
trai:
– Stephen, anh tìm
cái gì vậy?
Chàng trai trả lời như họ là một đôi tình nhân:
– Anh đem tin
vui đến cho em đây.
Anh vừa trở về
đất liền không quá 10 phút và nghe mẹ anh kể về chuyện chồng
em. Anh vội chạy tới đây để nói với em một điều. Mary à,
chuyện đau buồn
đã qua rồi.
Tiếng Mary vọng xuống từ cửa
sổ, nước mắt chị lại trào
ra:
– Stephen à, em khá
hơn nhiều rồi!
Chàng trai hốt hoảng kêu lên:
– Đừng khóc, Mary. Hãy nghe nốt câu chuyện đã.
Stephen ngưng một lát rồi nói tiếp:
– Anh đã gặp chồng em ở một hải cảng
nước Anh. Anh ấy khoẻ mạnh nhưng hơi ốm
một chút. Tụi
anh đã nói chuyện với
nhau. Anh ấy sẽ sớm về với em thôi.
Mary lặng người bên cửa sổ, không nói một lời.
Nói xong, chàng trai
vội vàng bước đi. Chị nhìn
theo. Những bước chân của anh như không thật. Bóng dáng anh hư ảo, khi thì lẫn vào bóng đen, lúc lại hiện ra dưới ánh
trăng. Nhưng chị
chẳng thấy điều gì khác lạ. Niềm hy vọng trào
dâng trong lòng chị, nỗi
đau tan biến. Tim chị đập mạnh, rộn ràng
như điệu nhạc vui. Chị
muốn chia sẻ niềm vui này, và người đầu tiên chị nghĩ đến là cô
em dâu. Chị chạy hối
hả vào phòng Margaret, rồi
chị chợt nhận ra là mình vô tâm. Margaret sẽ phải vui cùng niềm vui của chị trong khi tim cô vẫn đang ứa máu
sao? Chị đứng ngắm
nhìn em dâu. Margaret nằm
yên trong giấc ngủ êm
đềm. Gò má
mịn hồng, đôi
môi mọng đỏ như
đang mỉm cười rạng rỡ. Chị nghĩ: “Tội
nghiệp em! Em đừng thức dậy kẻo những
giấc mơ đẹp sẽ bay đi mất. Thiên
Chúa sẽ độ trì em”.
Mary trở mình trong giấc ngủ, hai dòng lệ nhẹ lăn dài
trên má. Ở bên
kia, Margaret vẫn vùi
đầu vào
chiếc gối thấm đầy nước
mắt…
Từng đêm, trước khi đi ngủ, hai chị em vẫn
lần Chuỗi Mân Côi và Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót
để cầu nguyện
cho chính họ và cầu nguyện cho người chết mau
về hưởng Tôn Nhan Thiên Chúa. Về phần đời, họ không
thể không sầu khổ, nhưng với đức
tin Công giáo, họ luôn vững tin vào Tình yêu Thiên Chúa và tin
có sự sống lại
ngày mai.
NATHANIEL
HAWTHORNE (1804-1864)
TRẦM THIÊN THU
(chuyển ngữ và
phóng tác)
|