Đồng
tiền.
Có một ông già giàu gặp một
vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề
đường, liền hỏi: “Ông ngồi đây làm gì
vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc,
về làm cho tôi ông sẽ có tiền”. Vị đạo
sĩ trả lời: “Cám ơn ông, tôi rất sợ
tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở
đó có tội ác”. Ông nhà giàu nói: “Ông rất lầm nên
mới yếm thế bi quan. Thế gian có
tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng
được, khắp đông tây đều công nhận
như vậy”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông
càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được
mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó
là câu nói của các nhà đạo đức phương
tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền
bạc mua được tất cả nhưng không
thể mua được lương tâm của
người quân tử”. Ông nhà giàu lại nói: “Ông biết
chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc
đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh.
Có phải tiền bạc đã biến đổi thế
giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?”. Vị đạo sĩ trả lời: “Ông
chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không
thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ:
tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu
nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh
chấp và chết chóc”. Ông nhà giàu không nói thêm
gì nữa.
Cuộc đàm thoại giữa ông nhà
giàu và vị đạo sĩ trên đây chỉ xác nhận
những điều mà có lẽ tất cả chúng ta
đều đã biết và công nhận như vậy. Bởi vì tự nó
tiền bạc chỉ có một giá trị rất nhỏ.
Theo cách đánh giá này thì tờ 500 đồng cũng
giống như tờ 1 đồng, chỉ là một
tờ giấy có in hình khác nhau, đáng giá vài xu do tiền
giấy và công in. Nhưng theo giá trị
định ước, thì tờ 500 gấp 500 lần
tờ 1 đồng. Chính vì giá trị
định ước này mà tiền bạc dù rách, dù hôi, nó
vẫn được quí trọng, dù đẹp dù xấu,
dù mới dù cũ, nó vẫn được người ta
dành cho nhiều cảm tình. Nó được
chuyền qua biết bao nhiêu bàn tay và
được sử dụng vào muôn vàn việc khác nhau.
Tiền bạc là phương tiện
giúp cho người ta trao đổi để dễ dàng
sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày. Nên tiền bạc tự
nó không xấu mà trái lại là đàng khác. Nhưng nó
trở nên tốt hay xấu là do con người sử
dụng nó. Nó có thể được dùng vào những
việc gian manh, bất lương, xảo trá, gây nguy
hiểm và tai hại cũng như được dùng vào
những công việc bác ái, xây dựng tình yêu, tạo nên tình
bạn hay đem lại những lợi ích vật chất
và tinh thần.
Như
vậy, tất cả chúng ta đều nhất trí
rằng: tiền bạc tự nó là tốt và luôn luôn có giá
trị rất thực tế theo như
định ước người ta gán cho nó. Tờ 1000
đồng chắc chắn phải hơn tờ 50
đồng, tờ 100 đồng, tờ 500 đồng.
Nhưng tại sao trong bài Tin Mừng Chúa Giêsu lại nói hai
đồng tiền kẽm, chỉ đáng một phần
tư đồng xu Rô ma của người đàn bà góa
nghèo bỏ vào thùng tiền dâng cúng ở đền thờ
lại quí hơn những số tiền lớn của
những người giàu?
Xét về số lượng thì chắc
chắn hai đồng tiền của bà góa thua kém xa số
tiền lớn của những người khác. Nhưng xét theo tỷ lệ
tương quan, nghĩa là về hoàn cảnh, về lý do,
về mục đích thì người đàn bà này đã
bỏ vào thùng tiền nhiều hơn, bà ấy đã cho
nhiều hơn hết, vì bà không dâng những thứ dư
thừa mà dâng những cái rất cần thiết
để nuôi sống. Có thể số
tiền đó chính là một ổ bánh mì, một lon gạo,
một bó rau đủ để nuôi sống bà trong ngày hôm
đó. Nhưng không, bà không lo đến
tương lai, không lo ngày mai sẽ ra sao, bà chỉ biết
phụng sự mà không biết lợi dụng tôn giáo hay
lợi dụng Thiên Chúa. Trái lại,
những người dâng cúng nhiều chỉ khoe khoang
để tìm danh vọng tiếng khen. Số
tiền họ dâng cúng tuy nhiều nhưng so với cơ
nghiệp và gia tài của họ thì có thấm thía gì. Họ chỉ mất một ít tiền bạc
nhưng lại được lời về danh giá và
tiếng khen. Cho nên, thực sự
họ chẳng cho hoặc dâng hiến được bao
nhiêu. Đó là một cuộc đầu
tư một vốn bốn lời. Đó
là một sự lợi dụng tôn giáo và bác ái chứ không
phải phục vụ. Chính vì lý do đó mà Chúa Giêsu
đã đánh giá bà góa nghèo dâng cúng nhiều hơn mọi
người.
Hơn
nữa, đối với Thiên Chúa, điều quan
trọng không phải là bao nhiêu, nhiều hay ít, miễn là
với tất cả tấm lòng. Ngài không ham của cải
Ngài đã ban cho loài người, nhưng chỉ muốn
lòng thành thực của con người mà thôi. Cho nên,
người ta có thể dâng thật nhiều cho Thiên Chúa,
nhưng bao lâu người ta chưa dâng chính mình hay ít
nữa những gì thuộc về bản thân, những gì
liên hệ tới chính con người của mình thì kể
là người ta chưa dâng hiến gì cả.
Qua bài Tin Mừng với việc làm
của người đàn bà góa nghèo, Chúa Giêsu dạy cho
chúng ta biết ý nghĩa và giá trị của tiền
bạc đối với người sử dụng nó và
qua đó chúng ta rút ra được một bài học,
đó là hãy biết cho đi. Bởi vì thương yêu là cho đi.
Càng cho nhiều là dấu càng yêu thương
nhiều, nhất là cho đi với một lòng thành
thực thiết tha. Nhưng không
phải chỉ cho những gì là vật chất như
của cải, tiền bạc mới là cho. Chúng ta có
thể cho những gì là siêu nhiên cao quí như lời cầu
nguyện; và cho những gì là tinh thần như một
nụ cười, một cái nhìn thiện cảm, một
lời nói vui vẻ hiền hòa hay những lời an ủi chân thành…
|