HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN B
1 V 17,10-16 ; Dt 9,24-28 ; Mc 12,38-44
ĐỂ “CỦA CHO” THÀNH LỄ DÂNG
ĐẸP LÒNG CHÚA
I. HỌC LỜI
CHÚA
1.TIN MỪNG: Mc 12,38-44
(38) Trong lúc
giảng dạy, Đức Giê-su nói rằng: “Anh em phải
coi chừng những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính
trong bộ áo thụng, thích được người ta
chào hỏi ở những nơi công cộng. (39) Họ
ưa chiếm ghế danh dự trong hội
đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám
tiệc. (40) Họ nuốt hết tài sản của các bà
góa, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu
giờ. Những người ấy sẽ bị kết án
nghiêm khắc hơn”. (41) Đức Giê-su ngồi
đối diện với thùng tiền dâng cúng cho
Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông
bỏ tiền vào hòm đó ra sao. Có lắm người giàu
bỏ thật nhiều tiền. (42) Cũng có một bà góa
nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền
kẽm, trị giá một phần tư đồng bạc
Rô-ma. (43) Đức Giê-su liền gọi các môn đệ
lại và nói: “Thầy bảo thật anh em: bà góa nghèo này
đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. (44) Quả
vậy, mọi người đều rút từ tiền
dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào
đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà
bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả
những gì bà có để sống.
2.Ý CHÍNH: Bài Tin Mừng hôm nay được chia làm hai phần
tương ứng với hai hạng người tiêu
biểu trong đạo Do thái là giới kinh sư và
giới bà góa nghèo như sau: Trước hết,
Đức Giê-su khiển trách thói đạo đức
giả của các kinh sư Do thái, biểu lộ qua 4 thói
xấu như: ăn mặc đài các, tìm kiếm hư
danh, tranh giành địa vị, đạo đức
vụ lợi. Sau đó, Người đề cao lòng
đạo đức của một bà góa nghèo, biểu
lộ qua việc dâng cúng tiền bạc vào Đền
Thờ. Tuy số tiền bà dâng không bao nhiêu, nhưng
nhờ có lòng hy sinh, nên bà đã được Đức
Giê-su đánh giá là đã bỏ vào thùng nhiều hơn
mọi người.
3.CHÚ THÍCH:
- C 38: + “Anh em phải coi chừng
những ông kinh sư”: Đức Giê-su cảnh giác dân chúng
coi chừng kẻo bị lây nhiễm các thói xấu của
các kinh sư hay luật sĩ. + xúng xính trong bộ áo
thụng: Áo thụng là loại áo choàng dài
chấm đất mà các tư tế thường xử
dụng khi làm việc tế tự. Người Do thái
thường tỏ lòng tôn kính đối với các tư
tế. Các kinh sư cũng thích mặc loại áo này
để tỏ ra mình có lòng đạo đức và
cũng mong được dân chúng kính trọng như
vậy. Đây là thói xấu kiêu ngạo, tự cao tự
đại (x. Mt 23,5). + thích được
người ta chào hỏi ở những nơi công
cộng: Người Do thái hay chào hỏi các kinh
sư, là những người giải thích Kinh Thánh tại
các hội đường vào ngày Sa-bát. Danh hiệu “ráp-bi”
có nghĩa là “đại nhân của tôi”, được dùng
để xưng hô khi nói chuyện với các kinh sư. Vì
muốn được chào hỏi tôn kính, nên các ông thích
đi đi lại lại ở nơi có nhiều
người để được thiên hạ bái chào.
Đây là thói xấu ham mê danh vọng.
- C 39-40: + chiếm ghế danh
dự trong hội đường: Tại mỗi hội
đường Do thái đều có một chiếc ghế
danh dự đặt trước tủ đựng kinh
sách. Đối diện với cộng đoàn là chỗ
dành cho những bậc vị vọng. Ai ngồi ở
đây thì không bị che khuất và mọi người trong
hội đường có thể nhìn thấy họ. Các kinh
sư vốn tự cao nên thích ngồi ở hàng ghế danh
dự này. Đây là thói xấu ham mê chức quyền. +
thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc: Tại
đám tiệc của người Do thái, vị trí chỗ
ngồi được xếp đặt rõ ràng. Chỗ
danh dự nhất là ở bên phải gia chủ. Chỗ
thứ hai là bên trái, và tiếp tục như vậy từ
phải sang trái chung quanh bàn ăn. Người ta dễ dàng
nhận ra thứ bậc của người khách, căn
cứ vào chỗ ngồi được gia chủ sắp
xếp cho họ trong bữa tiệc. + nuốt hết
tài sản của các bà góa: Các bà góa thường
thiếu hiểu biết, nhẹ dạ nên được
xếp vào hạng người cần được quan
tâm giúp đỡ (x. Đnl 24,17.19). Mỗi khi bị bắt
nạt chèn ép, các bà góa thường cậy nhờ các kinh
sư bênh vực. Đây là cơ hội thuận tiện
để một số phần tử xấu trong hàng
ngũ kinh sư lợi dụng làm tiền, bằng cách
chỉ vẽ Lề luật và hứa cầu nguyện cho.
+ làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ: Việc
các kinh sư và người biệt phái hay cầu nguyện
dài dòng thì ai cũng rõ. Người ta bảo rằng:
Những bài cầu nguyện ấy không nhằm dâng lên Thiên
Chúa tâm tình yêu mến mà chỉ nhằm phô trương công
đức trước mặt người đời. Do
đó, họ cố tình cầu nguyện tại ngã ba
đường, nơi mà người ta dễ thấy mà
ca tụng lòng đạo đức của họ. +
họ sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn: Luật
Môsê coi việc xử tệ với các người cô
thế cô thân, trong đó có các bà góa là một trọng
tội và sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc (x. Xh
22,21-23). Đức Giê-su cho biết: Những hành vi này
của các kinh sư chỉ là hình thức đạo
đức giả và vụ lợi, nên họ sẽ bị
kết án nghiêm khắc trong ngày tận thế.
- C 41-42: + Đức Giê-su
ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho
Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông
bỏ tiền vào đó ra sao: Giữa sân dành cho dân
ngoại và sân dành cho phụ nữ là cửa Đẹp.
Đức Giê-su đã đến ngồi tại đó sau
khi đã tranh luận trong sân dành cho dân ngoại và tại
hành lang Đền Thờ. Trong sân dành cho phụ nữ có
đặt mười ba thùng đựng tiền của
dân chúng tự nguyện đóng góp, dùng để làm bánh
tế lễ, mua dầu đèn và các chi phí khác.+ bà góa
nghèo: Một thân phận đáng thương vì bị
cô thế cô thân không nơi nương tựa, nhất là
còn nghèo tiền bạc vật chất. + hai
đồng tiền kẽm trị giá một phần tư
đồng bạc Rô-ma: Đây là đơn vị
tiền tệ nhỏ nhất, ám chỉ sự nghèo khó cùng
cực của bà này. Sở dĩ tác giả chú thích hai
đồng tiền kẽm trị giá một phần tư
đồng bạc Rô-ma là nhằm giúp các độc giả
La-Hy thời bấy giờ dễ hiểu hơn. Ở
đây Mác-cô muốn nhấn mạnh đến sự
tương phản giữa hai số tiền dâng cúng
của hạng người giàu và kẻ nghèo hèn.
- C 43-44: + Bà góa nghèo này đã
bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết: Nhiều
hơn ai hết là theo cách đánh giá của Đức
Giê-su khi xét theo tỷ lệ giữa số tiền bà dâng
cúng với tài sản của bà. Bà đã dâng ngay cả
những cái cần cho cuợc sống hằng ngày,
giống như lời Đức Chúa nói với ngôn sứ
Sa-mu-en khi ra lệnh cho ông xức dầu phong Đa-vít lên
làm vua thay thế vua Sa-un: “Người phàm chỉ thấy
điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy
tận đáy lòng” (1 Sm 15,7). + mọi người
đều rút từ tiền dư bạc thừa: Của
dư thừa ám chỉ sự dâng cúng kém giá trị, vì
“của nhiều lòng ít”. + còn bà này thì rút từ cái túng
thiếu của mình: Bà “của ít lòng nhiều”:
Tuy tiền dâng ít nhưng kèm hy sinh bản thân nên đã
tăng giá trị lên nhiều lần.
4. CÂU HỎI:
1) Đức
Giê-su đã quở trách bọn kinh sư và biệt phái
về các thói xấu nào?
2) Người
đánh giá thế nào về hai đồng tiền kẽm
mà bà góa nghèo đã dâng trong Đền thờ? Tại sao?
II. SỐNG
LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Thầy bảo thật anh em: “Bà góa nghèo
đã bỏ thùng nhiều hơn ai hết”(Mc 12,43).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TRÁNH LÀM VIỆC BÁC ÁI ĐỂ TÌM HƯ
DANH:
Một bà nọ là thành
viên của một hội đoàn đạo đức
chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận
được giấy mời đến dự buổi
họp mặt bất thường để quyên góp giúp
đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này
sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một
triệu đồng. Nhưng trong buổi họp, khi
thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số
tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn
tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi
tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ
số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút
bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao
thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương
đương năm triệu đồng mà bà
định mang đi vào sau buổi họp mặt hôm đó
để mừng đám cưới con trai của bà
bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều.
Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn
đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp
dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể
diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà
đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã
bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi
nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi
lần nghĩ tới là bà lại cảm thấy nuối
tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho
đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài dự tính
kia.
2) GÃ BÁN THỊT VÀ LÃO ĂN MÀY:
Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu
chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia
rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày
từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh
quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói
bụng nhìn những miếng thịt nướng trên
vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít
thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay
vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không
có tiền mua thịt. Cuối cùng lão nghĩ ra một
kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô
mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than
hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói
thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta
vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám
khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy
vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi
trả tiền. Bấy giờ
lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt
nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải
là thịt”. Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt
đang nướng bay ra là thuộc về miếng
thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng
phải trả tiền”. Hai người cự cãi không ai chịu thua ai. Cuối cùng họ
đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa
liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một
đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà
phát ra một tiếng “keng”. Rồi quan toà phán quyết cho
hai người như sau: “Lão ăn mày được
quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn
anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra
từ đồng tiền
của lão ăn mày”.
3) CÁI CHẾT CỦA CÔ GÁI BÁN DIÊM NGHÈO KHÓ:
Vào một buổi tối mùa thu, nhà
văn Anderson đi dạo phố một mình tại
thủ đô Copenhague. Ông
bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ
đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao
diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một
đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo
nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm,
cả ngày cháu chưa bán được một bao nào.”
Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn
cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết
sớm, con bé phải ở với một người cha
nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất
thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi
để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố
những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền.
Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ
mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật
ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và
chú làm nghề gì ?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này”. Nhà
văn vừa nói vừa khoa tay vẽ vào khoảng không hình
một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn. Đứa bé không
hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó
đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến
đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó
một món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải
đi xa.
Nhiều
tháng trôi qua, Anderson dường như đã quên lời
hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ trở
lại Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã ghé
mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm để
tặng. Tuy nhiên người chủ tiệm bên
đường đã cho ông biết con bé bán diêm đã
chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy
nó nằm chết cóng bên vệ đường. Nó nằm
chết giữa một đống bao diêm, trong đó có
một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm
để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là
khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng hào và
dường như nó đang mỉm cười chờ
đợi một ai đó. Anderson đứng chết
lặng. Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác
nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra
một vật giống như chiếc quản bút làm
bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai
đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng
chú Anderson”.
Câu chuyện cảm động trên là
một kỷ niệm buồn trong cuộc đời
của nhà văn Anderson. Câu chuyện này cũng giống
như câu chuyện về người đàn bà góa nghèo trong
Tin Mừng Marcô hôm nay. Cô bé bán diêm và người đàn bà
góa có nét giống nhau: Cả hai đều là những
người rất nghèo và bị xã hội bỏ rơi; tuy
vậy cả hai đều có lòng quảng đại,
biết cho đi những gì mình có. Nhưng điểm
giống nhau căn bản là tuy nghèo vật chất, nhưng
lại rất giàu về lòng nhân ái khi luôn biết nghĩ
đến người khác.
4) TINH
THẦN NGHÈO CỦA THÁNH PHAN-XI-CÔ KHÓ KHĂN :
Một
giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã
được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn
tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi Phanxicô đã
phân phát cho người nghèo tất cả của cải
của mình, ngài bắt đầu đi lang thang đó
đây khất thực, vừa đi đường vừa
ca hát. Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ
vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày
đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá,
quần áo sang trọng của anh đâu cả rồi?”.
Phanxicô trả lời: “ Tất cả những thứ
đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó tất
cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi
lang thang đến đây từ đâu và anh định
sẽ đi đâu thế ? “ – “Tôi đến từ
một nơi rất xa và tôi cũng đang trên
đường đi về nơi ấy”. Người
bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp:
“Thế tại sao anh lại vừa đi đường
vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” –
“Tôi hát là để khỏi bị lạc đường
đó thôi.”
Là
những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng
rất dễ bị lạc đường, nếu chúng ta
để cho của cải vật chất điều
khiển. Điều quan trọng là chúng ta phải phá
đổ thới xấu ích kỷ của mình để biết
quảng đại cho đi giống như bà góa trong Tin
mừng hôm nay.
5) LÒNG QUẢNG
ĐẠI CỦA MỘT ĐÔI VỢ CHỒNG NGHÈO:
Một
cặp vợ chồng về quê thăm họ hàng trong ngày
nghỉ lễ. Họ lái xe được một quãng
đường thì trời đổ mưa tầm tã và xe
thình lình bị hư dọc đường. Đêm đã
khuya và lạnh mà họ thì lại không quen thuộc
đường lối. Sau khi đã hết mưa, họ
bèn bỏ xe, đi bộ đến gõ cửa một
căn nhà gần đó có ánh đèn hắt ra. Khi họ
bước vào thì gặp hai ông bà già. Trước lời
xin trú ngụ qua đêm của cặp vợ chồng, hai
ông bà đã vui vẻ nói: Được lắm, chúng tôi có
sẵn một căn phòng trống. Sáng hôm sau, cặp
vợ chồng dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì
không muốn quấy rầy chủ nhà, người vợ
để một số tiền lên bàn, rồi rón rén mở
cửa bước ra. Và họ thực sự bỡ
ngỡ khi nhìn thấy hai ông bà già đang co ro nằm
ngủ trên sàn nhà ngoài phòng khách. Thì ra hai ông bà già này đã nhường
chỗ cho cặp vợ chồng trẻ, còn mình sẵn sàng
nằm ngủ dưới đất. Câu chuyện này giúp
chúng ta hiểu được ý nghĩa cao quí của sự
hy sinh và tình yêu thương của bà góa thời ngôn sứ
Êlia và bà góa trong Tin mừng. Các bà đã cho đi tất
cả những gì mình có.
3. THẢO LUẬN: Trong những ngày
này mỗi người chúng ta có thể chia sẻ những
gì cụ thể trong tầm tay của mình cho những
người nghèo đói bất hạnh và bị bỏ
rơi để làm vui lòng Chúa?
4. SUY NIỆM:
1) Hãy quảng đại dâng cho Chúa
mọi sự thuộc về mình:
Trong Tin Mừng hôm nay,
Đức Giê-su đã lên án thái độ giả dối
của các kinh sư Do thái và Người đã dạy môn
đệ phải quảng đại cho đi, noi
gương bà góa nghèo nọ đã dâng hai đồng tiền kẽm, trị giá một
phần tư đồng bạc Rô-ma, là số
tiền nhỏ bé bà dùng để nuôi bản thân mình trong
một ngày. Bà đã được Đức Giê-su đánh
giá cao việc dâng cúng quảng đại này: “Thầy bảo thật anh em: bà
góa nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết.
Quả vậy, mọi người đều rút từ
tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ
vào đó. Còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình
mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả
những gì bà có để sống” (Mc 12,43b-44).
Câu chuyện cổ tích Ả rập
về anh hàng thịt nướng keo kiệt đối
xử hà khắc đối với kẻ nghèo nói trên
cũng vẫn thường hay xảy ra trong xã hội hôm
nay: Nhiều lần chúng ta đã cư xử với
người khác cách keo kiệt tương tự. Việt
Nam chúng ta có một câu chuyện vui về một ông bố
keo kiệt và tham ăn như sau:
Một hôm sau một đêm thức
trắng đánh dậm bắt được một
giỏ mươi con cá, anh ta về ngồi bên bếp than
nướng cá để làm mồi nhậu lai rai một
mình. Đứa con trai nhỏ 4 tuổi ngửi thấy mùi
thơm của cá liền khóc lóc đòi được
ăn cá. Bà mẹ liền dỗ dành cậu con yêu: “Con hãy
nín đi để mẹ coi xem có con cá nào nhỏ, mẹ
sẽ xin bố cho con ăn nhé!”. Ông bố nghe vậy
liền đáp: “Cho cái gì? Không có con cá nào nhỏ cả, con
nào cũng to bằng nhau hết !”.
Cũng vậy, nhiều lần chúng
ta thường né tránh để khỏi giúp đỡ tha
nhân bằng câu nói: “Hãy đợi đấy! Khi nào làm
ăn khá hơn, tôi sẽ chia sẻ giúp đỡ cho anh”.
Nhưng sự chờ đợi ấy sẽ kéo dài mòn
mỏi không biết phải chờ đến bao giờ.
Người ta có thể nêu ra cả ngàn lý do để
biện minh cho thái độ vô cảm, thiếu yêu
thương, không muốn giúp đỡ tha nhân của mình.
2) Giá trị
của một hành động bác ái từ thiện hệ
tại chỗ nào ?
- Của cho không bằng tấm lòng
người cho: Của nhiều mà lòng ít thì không quý bằng
của ít lòng nhiều. Hai bà góa thời ngôn sứ Ê-li-a và
thời Đức Giê-su sở dĩ được đề
cao là do lòng yêu mến đối với người
của Chúa và với công việc nhà Chúa. Chính lòng yêu mến
đã làm cho hành động của hai bà có giá trị
trước mặt Chúa. Và Chúa Giê-su đã khen bà góa trong Tin
Mừng tuy chỉ bỏ hai đồng kẽm nhưng đã
dâng Chúa nhiều hơn tất cả những người
khác đã bỏ nhiều tiền. Vì những người
kia dâng số tiền dư, còn bà goá này dâng Chúa tất
cả những gì bà đang cần.
- Một việc lành
của chúng ta chỉ thực sự tốt khi nó
được thực hiện với lòng mến. Câu
chuyện về người đàn bà ủng hộ
đồng bào bị lũ lụt nói trên: Ban đầu bà
đã có quyết định tốt khi dự định
bỏ thùng ủng hộ một triệu đồng.
Nhưng khi thấy nhiều người khác cũng bỏ
vào thùng một triệu như vậy, thì bà liền tăng
số tiền ủng hộ lên gấp đôi để
tỏ ra quảng đại hơn người khác. Sau
đó việc rút nhầm bao thơ 200 đôla Mỹ
tương đương năm triệu đồng để
bỏ vào thùng là ngoài ý muốn của bà, thể hiện qua
việc bà tiếc nuối và muốn đến đòi
lại số tiền dư kia, nhưng do thói sĩ
diện hão, nên đành chấp nhận số tiền đã
lỡ bỏ thùng hơn gấp nhiều lần. Số
tiền bà góp này cũng không có giá trị về thiêng liêng
trước tòa Chúa phán xét sau này vì nó không phát xuất từ
tình yêu tha nhân, mà chỉ vì thói sĩ diện hão nhằm
để tìm tiếng khen.
3) Về ba
loại người cho và giá trị của ba cách cho:
+ Một là người
cho cách bất đắc dĩ:
Do muốn tránh bị quấy rầy, nên du cho mà trong lòng cảm
thấy bực bội. Loại người này
thường phân trần với bạn bè: “Mình ghét hắn
ta, nhưng đành phải “thí” cho hắn ít tiền cho xong,
để hắn mau biến đi khuất mắt!”.
+ Hai là người cho để làm xong bổn
phận: Loại người cho này dù đã cho mà vẫn
không thấy vui. Họ thường nói với bạn bè:
“Mình bị rơi vào hoàn cảnh “tiến thoái lưỡng
nan” : “Bỏ thì thương mà vương thì tội!” Thôi
thì đành giúp đỡ hắn cho xong của nợ ! ”.
+ Ba là cho vì yêu thương: Do tự nguyện cho
người nghèo nên trong lòng người cho sẽ cảm thấy vui vẻ.
Trường hợp người được cho vì
một lý do nào đó không nhận, thì người cho sẽ
cảm thấy buồn. Loại người cho này
thường hay nói với những người chịu đau
khổ bất hạnh: “Tôi có
thể giúp gì được cho bạn?” hoặc: “Tôi
sẵn sàng chia sẻ những khó khăn bạn đang
gặp phải”. Cách cho thứ ba do này mới đẹp
lòng Chúa và chúng ta cần gắng thực hiện mỗi
ngày, để của lễ chúng ta dâng sẽ bay lên
trước tôn nhan Chúa và mang lại hạnh phúc sau này cho
chúng ta.
4) Hãy tập
quảng đại cho đi noi gương Chúa Cha:
- Thiên Chúa Cha chúng ta
đã biểu lộ một tình yêu quảng đại
để nêu gương cho chúng ta:
+ Chúng ta chỉ cần
một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.
+ Chúng ta chỉ cần
vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng
suối.
+ Chúng ta chỉ cần
vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng
dài.
+ Chúng ta chỉ xin
lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình Máu Thánh
Chúa Giê-su.
- Chúa Giê-su phán: “Cho thì có
phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực
hiện một số việc quảng đại như
PHĂNG-SÍT BAN-PHUA (Francis Balfour) đã liệt kê một
số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên
thực hiện như sau:
+ “Món quà đẹp
nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ;
+ Quà tặng cho bạn
bè là thái độ trung tín và
chân thành,
+ Quà cho các em nhỏ là tấm
gương bác ái và khiêm
nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho ông
bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,
+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương
và chia sẻ công việc nội trợ,
+ Và cuối cùng, quà cho
mọi người chung quanh là nụ
cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái,
một lời khen thành
thật, cùng thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp
ứng nhu cầu noi gương Đức Giê-su”.
5. NGUYỆN CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Cách
đánh giá của Chúa trong Tin Mừng hôm nay khác hẳn cách
nhìn nhận sự việc của chúng con. Vì “Loài
người nhìn mặt, còn Chúa lại nhìn lòng!” (1 Sm 16,7).
Chúa khen bà góa nghèo đã bỏ tiền dâng cúng nhiều
hơn ai hết. Dù số tiền của bà nhỏ bé,
nhưng bà “đã dâng tất cả những gì mình có
để nuôi sống mình”. Bà dâng do lòng mến Chúa thôi thúc,
nên đã được Chúa đánh giá: “Bà đã bỏ thùng nhiều hơn
ai hết” (Mc 12,43).
Về phần chúng con:
Nhiều khi chúng con dễ bị
chán nản buông xuôi việc tốt, khi không
được nhiều người biết
và khen ngợi... Xin Chúa thanh luyện ý hướng khí làm việc
lành của chúng con. Chúng con tin rằng: “Hữu xạ
tự nhiên hương” (x. Mt 6,1-4), nếu công việc chúng
con làm thực sự tốt thì sớm muộn cũng
sẽ được người chung quanh nhận
biết và họ sẽ ca ngợi tình yêu của Thiên Chúa là
Cha chúng con (x. Mt 5,14-16).
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. –Đ. XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|