CHUYỆN ÍT – NHIỀU
GIÀU HOẶC NGHÈO ĐỀU SINH RA TAY TRẮNG
SƯỚNG HAY KHỔ CŨNG CHẾT VẪN TRẮNG TAY
Đó là chân lý bất biến muôn thuở mà ai cũng biết. Sinh ra và lớn lên, cuộc sống mỗi người đều
khác nhau về mọi phương
diện, nhưng giống nhau về cái
khoản “tay không” lúc đến (sinh) và lúc đi (chết), dù cả đời vốn liếng NHIỀU
hay ÍT.
Thật
“thú vị” với cách
nói của người Việt:
Giàu sang và nghèo hèn. Ai “giàu” thì thường cũng được coi là
“sang”, còn ai “nghèo” thì thường
bị coi là “hèn”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy có khi
“giàu” mà không “sang”, hoặc
“nghèo” mà không “hèn”. Điều
đó còn tùy nhân cách của
người đó. Thể
thụ động ĐƯỢC hoặc BỊ của Việt
ngữ rất độc đáo – “được” dùng cho cái tốt, “bị” dùng cho cái không tốt, ngoại ngữ không
thể lột tả hết tình
trạng thụ động như Việt
ngữ.
Chắc
hẳn không ai muốn
nghèo, và càng chắc chắn
hơn là chẳng ai muốn hèn. Cũng
vậy, ai cũng muốn mình
giàu và sang. Nhưng người
chịu cảnh “đời hèn” khác hẳn với người “sống hèn”.
Người nghèo bị coi là hèn, nhưng có thể người đó
không hề sống hèn;
còn người giàu
luôn được coi là
sang, nhưng chưa hẳn
đã “sống sang” mà thậm chí còn “sống hèn”. Đó mới là chuyện đáng nói!
Trong cuộc
sống đời thường, người ta thường
khôi hài thực tế: “Đi
xe khỏe hơn đi bộ, đi bộ ngộ hơn
đi xe”. Nhưng thật ra chưa chắc ai hơn ai!
Tiền nhân cũng đã phân tích và xác định rõ ràng, như một dạng cảnh báo mà
thực tế đã chứng minh:
Chớ
thấy áo rách mà cười
Những
giống gà nòi lông nó lơ thơ
Đề
cập động tác “đi” là ngụ ý phải sử dụng đôi
chân – theo nghĩa đen. Tuy nhiên, theo nghĩa bóng thì người ta không chỉ “đi” bằng đôi
chân mà còn phải “đi” bằng
cái đầu. Hơn
thua nhau là “cách đi” – nhanh hay chậm
không thành vấn đề
mà là không “bán đồ
nhi phế”, quyết tâm kiên trì tới cùng.
Trình thuật
1 V 17:10-16 cho biết một “sự lạ” về chuyện
ít – nhiều khá thú
vị thế này...
Vào một
ngày nọ, ông
Êlia đi Xarépta. Khi đến
cổng thành, ông thấy
có một bà goá
đang lượm củi. Ông gọi bà ấy và nói: “Bà làm ơn
đem bình lấy cho tôi
chút nước để
tôi uống” (1 V 17:10). Bà ấy liền đi lấy nước. Ông gọi bà và nói: “Bà làm ơn
lấy cho tôi miếng bánh nữa!” (1 V
17:11). Bà trả lời: “Có
Đức Chúa,
Thiên Chúa hằng sống
của ông, tôi thề là tôi không có bánh. Tôi chỉ còn nắm bột trong hũ và
chút dầu trong vò.
Tôi đang đi lượm
vài thanh củi,
rồi về nhà nấu nướng cho tôi và
con tôi. Chúng tôi sẽ
ăn rồi chết” (1 V
17:12). Nhưng ông Êlia liền
nói: “Bà đừng
sợ, cứ về làm như bà vừa nói. Nhưng trước tiên, bà hãy lấy những thứ đó mà
làm cho tôi một chiếc
bánh nhỏ, và
đem ra cho tôi, rồi
sau đó bà sẽ làm cho bà và con bà” (1 V
17:13). Rồi ông
nhắc lại lời hứa của
Thiên Chúa: “Hũ bột
sẽ KHÔNG VƠI, vò dầu sẽ CHẲNG CẠN, cho đến
ngày Đức
Chúa đổ
mưa xuống trên mặt đất” (1 V 17:14).
Không hề
đắn đo hoặc so hơn tính thiệt, bà góa liền làm theo lời ông Êlia nói. Điều đó chứng tỏ bà ấy có lòng tin mạnh mẽ, vì bà ấy tin ông Êlia nói thật, đặc biệt là bà ấy vững tin vào lời Chúa hứa. Và phép lạ đã xảy ra đúng như vậy: Bà ấy cùng với ông Êlia và con bà có đủ ăn lâu ngày. Hũ bột đã không vơi, vò dầu đã chẳng cạn, y như lời Đức
Chúa đã dùng ông Êlia mà tuyên phán. Quả thật, bà góa này nghèo khổ nhưng vẫn “sống sang”, vẫn
quên mình, trọn lòng
yêu thương và bác ái vô điều
kiện.
Cách bác ái của bà góa lá cấp độ yêu thương
cao nhất, như vậy
mới thực sự là bác ái. Bình thường thì chúng ta chỉ ở mức BỐ THÍ
(cho để tránh bị quấy rầy) hoặc CÔNG BẰNG (dư thì cho, thậm chí là cho đồ thừa). Còn BÁC ÁI là CHO CÁI MÀ MÌNH
VẪN CẦN, yêu thương
vô điều kiện – vì người chứ không vì mình. Người nào thực sự sống đức bác ái
mới đúng là thánh nhân. Quả thật, không hề đơn giản như chúng
ta tưởng hoặc suy luận!
Đấng
yêu thương là Thiên Chúa, luôn chạnh lòng thương xót,
động lòng
trắc ẩn, và
chính Ngài cũng là nguồn
sống: “Ngài là Đấng giữ lòng
trung tín mãi muôn đời,
xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ
đói ăn” (Tv 146:7a). Thật vậy, cũng chính
Ngài “giải phóng
những ai tù tội, mở mắt cho kẻ mù
loà, cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên,
yêu chuộng những người
công chính, phù trợ
những khách ngoại
kiều, nâng đỡ
cô nhi quả phụ, phá vỡ mưu đồ bọn ác
nhân” (Tv 146:7b-9). Thiên Chúa yêu quý và tôn trọng những người nghèo khổ và hèn mọn, không thích “quen thân” với những người giàu có
và sang trọng. Còn
chúng ta? Có thể trả lời
ngay và dám trả lời thật?
Đó là tình yêu của Thiên Chúa, và Con-Tim-Yêu của Chúa Giêsu như thế đấy – chúng ta gọi Trái-Tim-Yêu đó là Thánh
Tâm, là Lòng Chúa Thương Xót, bởi
vì chính Thiên Chúa là Đấng
giàu lòng thương xót (Ep 2:4), là Đấng “nắm giữ vương quyền
muôn muôn thuở và hiển trị ngàn đời” (Tv 146:10). Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, giàu có là thế, nhưng Ngài lại chỉ thân thiện với những người bị
xã hội xa lánh,
ruồng bỏ. Ai sống như Ngài mới đích thực là đệ tử của Ngài, nếu không thì chỉ là giả hình, lẻo mép. Sự thật có thể làm “mất lòng” như thế đấy!
Mạnh
mẽ minh định, Thánh Phaolô nói: “Đức Kitô đã chẳng vào một cung thánh do tay người phàm làm ra, vì cung thánh ấy chỉ là hình bóng của cung thánh thật. Nhưng Ngài
đã vào chính cõi trời,
để giờ đây ra đứng trước mặt Thiên
Chúa chuyển cầu cho chúng
ta” (Dt 9:24). Ngài vào đó không phải để dâng chính mình làm của lễ nhiều lần, như vị
thượng tế mỗi năm phải đem theo máu của loài khác mà vào cung thánh. Thế nhưng “Ngài đã phải chịu khổ hình
nhiều lần, từ khi thế giới
được tạo thành” (Dt 9:26a). Hai dạng ít – nhiều khác nhau.
Và rồi
Thánh Phaolô cho biết
thêm: “Vào kỳ
kết thúc thời gian, Ngài đã xuất hiện chỉ một lần, để
tiêu diệt tội lỗi
bằng việc hiến tế chính
mình” (Dt 9:26b). Con Thiên Chúa đã chịu chết để cho phàm
nhân chúng ta biết thân phận mình cũng phải chết, chết cho tội lỗi: “Phận
con người là phải chết một lần, rồi sau
đó chịu
phán xét” (Dt 9:27). Chính Đức Kitô đã “tự hiến tế chỉ một lần
để xoá bỏ
tội lỗi muôn người” (Dt
9:28a). Và Ngài sẽ xuất hiện
lần thứ hai, nhưng lần này “không phải để xoá bỏ tội lỗi, mà
để cứu độ
những ai trông đợi
Ngài” (Dt 9:28b).
Vậy
ai là người trông
đợi Đức Kitô
giáng lâm? Đó là các tín nhân – những
người tín thác vào Chúa. Ai tín thác vào Chúa thì phải sống đức tin, ai muốn sống
đức tin thì phải
yêu thương tha nhân. Tuy nhiên, yêu tha nhân không phải là chỉ yêu thương người cùng phe với mình, người giàu sang, người có địa vị, người có quyền thế,… mà PHẢI thành tâm yêu thương
những người khốn cùng
trong xã hội, kể cả
kẻ thù: “Hãy yêu kẻ
thù và cầu nguyện
cho những kẻ ngược đãi
anh em” (Mt 5:44), “Hãy yêu kẻ
thù và làm ơn cho kẻ
ghét anh em,28 hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” (Lc 6:27-28). Yêu không chỉ bằng lời nói mà
còn bằng hành
động cụ thể.
Đó là cách thể hiện
đức tin, là thực
hành Lòng Chúa Thương Xót, và cũng là thực hành Giáo huấn Xã hội của Giáo hội Công giáo.
Ngày xưa, trong một lần giảng dạy, Chúa
Giêsu đã cảnh báo: “Anh
em phải coi chừng những
ông kinh sư ƯA dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, THÍCH được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng. Họ ƯA chiếm ghế danh dự
trong hội đường, THÍCH ngồi cỗ nhất trong đám tiệc. Họ NUỐT hết tài sản của các bà goá, lại còn LÀM BỘ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ. Những người ấy sẽ bị
kết án nghiêm khắc hơn” (Mc 12:38-40). Các chữ “Ưa – Thích – Nuốt” đáng quan ngại biết bao! Đọc lời trực
ngôn này của Chúa
Giêsu, có lẽ chúng
ta nghĩ Ngài nói người
khác chứ mình
không hề liên
quan. Nếu thế thì “lầm to”, bởi vì Ngài nói thẳng với mỗi chúng
ta chứ chẳng trừ
ai ráo trọi. Có thể chúng ta không tỏ vẻ vênh vang ra mặt, nhưng chúng ta có cách thể hiện “ta đây” một cách rất tinh vi, rất khó có
thể nhận ra. Và rồi nếu có bị người khác phát hiện thì lại biện hộ với đủ lý do
và rất đúng
quy trình.
Có thể
mỗi nước, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc khác nhau về văn hóa và phong cách, nhưng
hẳn là vẫn có “nét” nào đó tương
tự. Tại Việt Nam, người
xưa thường mặc khăn đóng
và áo dài, nhất là những người có chức có quyền, nhưng họ có hai
loại áo dài: Một loại có vạt trước ngắn (vạt sau dài),
một loại có vạt sau ngắn (vạt trước dài).
Áo gì kỳ vậy, và
để làm gì
với loại áo
“đặc biệt” đó?
Người
xưa cũng mưu mô đáo để đấy, vạt nào
dài và vạt nào ngắn đều có đặc dụng của nó.
Khi đứng trước
vua chúa hoặc ông
quan lớn hơn mình,
họ mặc áo-dài-có-vạt-trước-ngắn và vạt-sau-dài. Nghĩa là họ phải khom lưng, phải qụy lụy,
chịu “lép vế”,
chịu luồn cúi,... cần
có vạt trước ngắn
để không vướng
víu, vạt sau dài
để che chắn “khu
nhạy cảm”. Nhưng khi đứng trước đám
dân đen, họ mặc áo-dài-có-vạt-sau-ngắn và vạt-trước-dài. Nghĩa là họ ưỡn ngực, cao ngạo, vênh
vang, hống hách,
truyền lệnh, thị
uy, hét ra lửa,... cần có vạt trước dài để che chắn và vạt sau ngắn để không vướng víu.
Và chính mỗi
chúng ta cũng thường
“sử dụng” hai loại áo ấy để… “đối phó” –
nói văn hoa là “tùy cơ ứng
biến”. Nhưng những loại “áo đặc biệt” đó ngày nay là loại “siêu trang phục”, khó phát hiện vạt nào dài và vạt nào ngắn!
Kinh Thánh cho biết rằng, một hôm
Đức Giêsu
vào Đền Thờ và ngồi đối diện với thùng
tiền (hòm tiền, giỏ tiền) dâng
cúng cho Đền Thờ. Ngài
quan sát xem đám đông bỏ
tiền vào đó thế nào. Có lắm người giàu bỏ thật NHIỀU TIỀN, họ ngó
quanh rồi hãnh
diện “giơ cao, thả mạnh”. Cũng
có một bà goá
nghèo đến bỏ vào
đó hai đồng tiền
kẽm, trị giá một
phần tư đồng xu Rôma, bà lúi cúi đến gần thùng tiền rồi bước đi nhanh, sợ
người khác nhìn thấy,
bởi vì bà... ngại lắm,
thậm chí bà còn “sợ”
bị người ta phát hiện mình bỏ ÍT TIỀN vô cái thùng to đùng kia.
[Xin được mở cái ngoặc bé xíu: Theo Hy ngữ, đồng tiền kẽm gọi là
“lepton” (số ít,
“lepta” là số nhiều). HAI
đồng kẽm có giá trị bằng MỘT quadrans, tương
đương 1/4 đồng xu Rôma –
đơn vị tiền tệ
nhỏ nhất của đế quốc Rôma
thời đó. Khi tiền đó được lưu hành ở Palestine, một lepton trị
giá khoảng “sáu
phút làm công” theo mức lương
trung bình mỗi ngày].
Chúa Giêsu quan sát thấy “phong cách” của mỗi người khác
nhau, Ngài liền gọi các
môn đệ lại và
nói: “Thầy bảo
thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng NHIỀU hơn ai hết” (Mc 12:43). Quá “sốc”! Quá khó nghe! Thế nhưng lại hoàn
toàn đúng, vì “mọi người
đều rút từ
TIỀN DƯ BẠC THỪA của họ mà
đem bỏ vào
đó; còn bà này rút từ
cái túng thiếu của mình
mà bỏ vào
đó tất cả tài sản, TẤT CẢ NHỮNG GÌ BÀ
CÓ để nuôi sống mình” (Mc 12:44). Có lẽ vóc dáng của bà không cao lớn nhưnh tấm lòng của bà to lớn quá!
Có thể có những người trong chúng
ta vẫn ảo tưởng
khi đi làm từ
thiện hoặc làm những
việc mà chúng ta gọi là “việc bác ái” hoặc “việc tông đồ”, cho rằng như vậy là
“oai” lắm, nhưng đôi
khi lại chỉ là
“chiếc áo
tàng hình”. Lời Chúa
hôm nay khiến chúng
ta phải tự minh
định lại động lực thúc
đẩy mình
hành động. Xét
để Sửa là tốt!
Trên website CWN (ngày 29-10-2012) có
đăng một tin ngắn về
việc TGM Socrates Villegas, TGP Lingayen-Dagupan (Philippines), viết
thư gởi các linh mục
thuộc giáo phận
của ngài, trong đó ngài nhấn mạnh: “Chư huynh linh mục
thân mến, CÁC BÍ
TÍCH KHÔNG ĐƯỢC
CỬ HÀNH ĐỂ LẤY TIỀN. Thương mại
hóa sự thánh
thiêng là BUÔN THẦN
BÁN THÁNH (practice of simony). ĐÓ LÀ TỘI LỖI”. Một giám mục cương quyết như vậy mới
đúng là chủ chăn
đích thực của Thiên
Chúa, chỉ vì lợi ích cho chính Thiên Chúa và nhân dân của Ngài. Tin tức đã cũ nhưng ý tưởng vẫn luôn mới nguyên!
Quả
thật, đó là một
trong những điều khiến chúng ta phải “giật mình” mà phải “tự xét mình” một cách nghiêm túc hơn, trước khi Đức Kitô
đến thế gian lần
thứ hai để xét xử – vì lúc đó không thể chấn chỉnh chi được nữa!
Lạy
Thiên Chúa muôn trùng cao cả,
con thành tâm xin lỗi Chúa, xin giúp con biết noi gương Con Chúa là
sẵn sàng
chia sẻ mọi nỗi
đau của những con người hèn mọn hằng ngày ở xung quanh con, bằng cách mở rộng tấm lòng
và mở rộng đôi
tay, tất cả chỉ
để vinh danh Chúa chứ không vì tiếng tăm riêng
đời này,
để cứu các
linh hồn, và
để đền tội
riêng của con ngay ở
đời này. Ngài ở đâu thì xin cho con cũng
được ở
đấy. Xin cậy nhờ công nghiệp của Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|