MÁU ĐÀO TÍN
NHÂN
Tục
ngữ Việt Nam có câu hay lắm: “Một giọt máu
đào hơn ao nước
lã”. Máu rất
quý vì máu là biểu hiện
sự sống. Máu được sản xuất không
ngừng từ Trái
Tim – Trung Tâm Phân Phối Sự Sống.
Máu có vài loại máu,
nhưng chung quy vẫn là sự sống. Máu có màu đỏ tươi, màu của Tình Yêu Thương. Sự Sống và Yêu Thương chính
là hiện thân của Thiên Chúa – Đấng là Nguồn Sống và Tình Yêu.
Ngày nay người ta đã bắt đầu yêu quý sự sống, được thể hiện
qua chương trình Hiến
Máu Nhân Đạo. Đó là
tín hiệu tốt. Hoạt
động này thực
sự đáng trân trọng.
Hiến máu có hai cái lợi: Một là cứu sống người, hai là
chính mình được thay máu mới và sẽ tránh béo phì, sức khỏe sẽ tốt hơn. CHO hoài
KHÔNG HẾT, càng
CHO càng có LỢI.
Từ
thế kỷ 17 tới 19, Việt Nam theo chế độ
quân chủ chuyên chế, vua là thiên tử (con trời) nên có toàn quyền sinh sát: “Quân xử thần tử, thần bất tử
bất trung”. Nho giáo
quan niệm như vậy.
Vua cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết, ai không chết là bất trung. Các vị Tử đạo Việt Nam đã giới thiệu một nền dân chủ trong đó người dân làm chủ đất nước, vua chỉ là người đại diện Thiên
Chúa điều hành
đất nước mà
thôi, và mọi người
đều là anh em với
nhau, theo kiểu nói “huynh đệ chi binh”. Không ai có quyền sát nhân vì Thiên Chúa là Chủ nhân của sự sống, nhưng chính
Đức Giêsu
đã chết cho nhân loại, dù Ngài là Thiên tử. Quan nhất thời, dân vạn đại. Chính phủ nào không vì dân thì không thể tồn tại. Dân
làm chủ đất nước
chứ không phải
vua chúa hoặc tổng thống,
chính quyền. Thế nên
CÁC THÁNH NHÂN ĐÃ CAN ĐẢM
CHẾT CHO GIÁ TRỊ
CỦA NỀN DÂN CHỦ
CAO QUÝ để bảo vệ
Chân Lý và Công Lý.
Thời
đó, xã hội Việt Nam theo
chế độ đa thê: “Trai thì năm thê
bảy thiếp, gái
chính chuyên chỉ có một chồng”. Nho giáo quan niệm là “nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” (một con trai kể là có,
mười con gái kể là không), phận nữ nhi thiệt thòi
quá! Còn nữa, vua chúa thời đó thích ai thì có quyền “bắt” về làm
thiếp. Cô gái nào “bị lọt vào mắt xanh” của nhà vua thì coi như
chôn vùi cuộc đời nơi
cung cấm. Chế độ quân chủ thật ích kỷ và tàn nhẫn! Các thánh nhân đã giới thiệu chân giá trị của Tin Mừng là “một vợ, một chồng” và
chung thuỷ trọn vẹn
suốt đời. Các thánh nhân thẳng thắn giới thiệu giá trị của sự bình
đẳng nam nữ, tất
cả đều do Chúa dựng nên với đầy đủ nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, nghĩa là không ai hơn ai.
Chính người Công giáo “sáng chế” ra chữ Quốc Ngữ, ông tổ là Lm Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ, sinh 15-3-1591, mất 5-11-1660),
nhà truyền giáo người Pháp, Dòng Tên. Gia Định Báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên xuất hiện tại miền Nam Việt
Nam vào năm 1865. Thời
đó, lý lịch ai là
Công giáo ghi trong sổ dân
đinh thì sẽ gặp đủ
chuyện rắc rối, không được học hành, thi cử, buôn bán… và còn bị thích hai chữ “tả đạo” trên
trán. Thế nhưng người
Công giáo vẫn không sợ gì. Khi khó khăn quá, họ trốn vào núi rừng sâu thẳm như ở Trà Kiệu, La Vang,... và tìm cách mưu
sinh qua ngày. Gay go nhất
là thời vua Minh Mạng,
Thiệu Trị và Tự
Đức. Thời kỳ đó đã có hàng trăm
ngàn vị tử đạo.
Người Công giáo ở
cả miền Bắc và miền Trung đều bị bách hại đủ kiểu, vì thế họ đã tìm cách di cư
vào Nam để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa, nhiều nhất là hồi tháng 7-1954.
Mỗi
thời có kiểu
bách hại riêng,
càng ngày càng tinh vi hơn. Thời
Cựu ước, sách Ma-ca-bê 2 kể rằng có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ. Vua An-ti-ô-khô cho lấy roi và gân bò mà đánh họ, để bắt họ ăn thịt
heo là thức ăn luật
Môsê cấm.
Bà mẹ
là người rất mực
xứng đáng khâm phục
và kính cẩn ghi nhớ. Bà thấy bảy người con trai phải
chết nội trong có một
ngày, thế mà bà
vẫn can đảm chịu đựng
nhờ niềm trông cậy
bà đặt nơi Đức
Chúa. Hẳn là rất hiếm có bà mẹ nào như vậy. Bà thực sự can đảm, đúng
là bà yêu mến Chúa
trên hết mọi sự.
Chỉ là lời lẽ của
một phụ nữ, nhưng lại đầy chí khí
nam nhi khi bà khuyến khích từng đứa con: “Mẹ không
rõ các con đã thành hình trong lòng mẹ thế nào. Không phải mẹ ban cho các
con hơi thở và sự sống, cũng không
phải mẹ sắp
đặt các phần cơ thể cho mỗi người
trong các con. Chính ĐẤNG TẠO HOÁ CÀN
KHÔN ĐÃ NẮN ĐÚC
NÊN LOÀI NGƯỜI,
và đã SÁNG TẠO
NGUỒN GỐC MUÔN LOÀI. Chính Người do lòng thương xót, cũng
sẽ trả lại
cho các con HƠI THỞ và SỰ SỐNG, bởi vì bây
giờ các
con trọng Luật Lệ
của Người hơn bản thân
mình” (2 Mcb 7:22-23). Lý lẽ
đầy xác tín và tràn trề hy vọng, không hề ảo tưởng. Những người
không có niềm tin Kitô
giáo chắc hẳn cho ai hành
động như vậy
là ngu xuẩn, là
điên rồ.
Rồi
bà nghiêng mình về
phía con trai, bà vẫn
hiên ngang chế nhạo tên bạo chúa, và âu yếm nói với con trai: “Con ơi, con hãy thương
mẹ: chín
tháng cưu mang, ba năm bú mớm, mẹ đã
nuôi nấng dạy dỗ
con đến ngần này tuổi đầu. Mẹ xin con hãy
nhìn xem trời đất
và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên
Chúa đã làm nên tất
cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành
như vậy. Con đừng
sợ tên đao phủ này; nhưng hãy tỏ ra xứng đáng với các anh con, mà chấp nhận cái chết, để đến ngày
Chúa thương xót, Người sẽ trả con và các
anh con cho mẹ” (2 Mcb 7:27-29).
Những
lời lẽ chứa đầy kiến thức Kitô
giáo và tràn đầy Thần
Khí. Bà phân tích giản
dị nhưng mạch lạc, với lý lẽ cứng rắn. Thật đáng
khâm phục một nữ
nhi liễu yếu đào tơ nhưng có tấm lòng rắn như thép. Hàng trăm ngàn vị tử đạo Việt Nam cũng
đã từng không
“tham sanh, úy tử”, không
“giá áo, túi cơm”, không hèn nhát trước những người tàn
ác, mà vẫn hiên
ngang làm chứng nhân
cho Đức Giêsu
Kitô. Kỳ diệu biết
bao!
Những
tôi trung luôn đặt
trọn niềm vui và hy vọng vào Chúa, hoàn toàn tín thác nơi
Ngài. Họ đã
THEO ĐẠO và cương
quyết GIỮ ĐẠO, đặc
biệt là can đảm SỐNG ĐẠO. Chuyện tất
yếu như một quy-luật-muôn-thuở: “Ai nghẹn ngào ra
đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 126:5). Chắc chắn là vậy. Các vị tử đạo đã
“nhìn thấy” phía
sau những gì
đang xảy ra với chính
mình trong giây phút hiện tại: “Họ
ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi
gieo; lúc trở về, về
reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv
126:6). Hy vọng của họ
bừng sáng mà không ai hoặc không gì có thể dập tắt!
Thánh Phaolô đặt vấn đề: “Có
Thiên Chúa bênh đỡ
chúng ta, ai còn chống
lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã
trao nộp vì hết thảy chúng
ta. Một khi đã ban
Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả
cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người
Thiên Chúa đã chọn?
Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu
Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và
đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng
ta? Ai có thể tách
chúng ta ra khỏi tình
yêu của Đức Kitô? Phải chăng là
gian truân, khốn khổ,
đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?
Như có lời chép:
Chính vì Ngài mà mỗi
ngày chúng con bị
giết, bị coi như bầy cừu để sát
sinh” (Rm 8:31-36). Theo tầm-nhìn-thế-gian, gian truân và nguy hiểm là những chướng ngại vật phải
tránh cho xa, càng tránh được nhiều thì càng tốt. Nhưng theo tầm-nhìn-Kitô-giáo,
những thứ đó
không là chướng ngại vật
mà là “đòn bẩy”
đưa người ta lên cao vút, tới tận nơi Thiên
Chúa ngự.
Thánh Phaolô giải thích: “Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu
mến chúng
ta. Đúng thế, tôi
tin chắc rằng: cho dầu
là sự chết
hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện
tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh
nào, trời cao hay vực
thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, KHÔNG CÓ GÌ
TÁCH ĐƯỢC
CHÚNG TA RA KHỎI
TÌNH YÊU CỦA
THIÊN CHÚA thể
hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng
ta” (Rm 8:37-39). Đúng vậy,
đơn giản như đôi nam nữ yêu nhau, cha mẹ càng cấm thì họ càng yêu nhau mãnh liệt. Đại văn hào
Victor Hugo (1802-1885, Pháp) đã cảm
nhận: “Chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Chỉ có những người yêu thật mới khả dĩ hiểu nổi,
không thì sẽ cho là “bị chạm thần kinh” ở cấp
độ nặng!
Ngày xưa, Đức Giêsu đã tiên báo những cuộc bách hại: “Hãy coi chừng người đời. Họ sẽ
nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh
em sẽ bị điệu
ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các
dân ngoại được
biết” (Mt 10:17-18). Ngài biết chúng ta sẽ lo lắng nên Ngài căn dặn: “Khi người ta nộp anh em,
thì anh em đừng
lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói
gì. Thật vậy, không
phải chính
anh em nói, mà là Thần
Khí của Cha anh em
nói trong anh em” (Mt 10:17-20). Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mọi nơi, mọi lúc,
và trong mọi người. Một
sự thật vừa minh nhiên vừa mặc nhiên.
Những
người yêu mến
Chúa sẽ bị chống
đối và bị
ghét bỏ, không
chỉ đối với người
ngoài mà đối với cả
những người thân và bạn hữu, thậm chí là
ngay trong gia đình: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người
ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm
cho cha mẹ phải chết.
Vì danh Thầy,
anh em sẽ bị mọi người thù ghét.
Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu
thoát” (Mt 10:21-22). Máu của các vị tử đạo đúng
là Máu Đào thực sự. Rất
quý giá!
Chuyện
xảy ra như vậy có vẻ lạ lùng, nhưng thực ra chỉ là chuyện bình thường vốn dĩ như vậy. Vấn
đề là chúng ta có can đảm sống đúng theo lý tưởng Đức Kitô hay
không. Đó cũng là một
dạng tử đạo: Tử đạo liên lỉ từng ngày trên đường lữ hành trần gian. Tử đạo kiểu nào cũng
có cái khó khăn riêng!
Lạy
Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết bảo vệ sự sống, nhưng
cũng giúp chúng con can đảm sẵn sàng dám hy sinh mạng sống vì
Danh Ngài.
Lạy
chư thánh tử đạo Việt Nam, tổ tiên của chúng con, xin nguyện giúp cầu thay và thêm sức mạnh tin yêu
cho chúng con để
chúng con biết
sống xứng đáng là tử tôn của các ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[Đăng báo ĐMHCG số 387, tháng 11-2018, DCCT xuất bản tại Hoa Kỳ]
|