GIỚI
RĂN CAO TRỌNG NHẤT
Chú giải mục vụ của Jacques
Hervieux.
Tiếp theo các cuộc tranh luận vừa
mới xảy ra, đoạn Tin Mừng này có nhiều nét
khác với những đoạn trước. Có một
thầy thuộc giới Kinh sư đến với Chúa
Giêsu (c.28a). Và Maccô cho thấy ngay rằng Chúa Giêsu tỏ ra
ưu ái ông. Một Kinh sư mà nêu ra một câu hỏi
như vậy kể cũng lạ (c.28b). chắc chắn
ông ta phải thông hiểu rành rẽ về Kinh Thánh. Đó
là lãnh vực chuyên môn của ông mà! Nhưng vào thời
bấy giờ, các Kinh sư thường sôi nổi tranh
luận xem giới luật này hay giới luật nọ
quan trọng hơn. Họ đã liệt kê được
tới 630 giới luật của Cựu Ước:
Cả một cánh rừng mịt mù đối với dân Do
Thái. Nhóm Biệt phái, bao giờ cũng khắt khe về
luật lệ, đã rút ra một nền luân lý quá ư
tỉ mỉ, phải mất công phân biệt. Người
ta có thể chờ đợi Chúa Giêsu sẽ dựa vào 10
điều răn để trả lời (x.Xh 20,1-17). Nhưng
không phải vậy, Ngài lại đọc những lời
đầu tiên của kinh cầu nguyện Do Thái giáo
(tựa như kinh Lạy Cha) (c.29a). Đó là kinh Shema Israel
(Hỡi Israel, hãy lắng nghe) (Đnl 6,4-5). Đó là một
kinh tuyên xưng niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất,
hết thảy mọi người đều phải
tận lực yêu mến Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không dừng
lại ở đây. Ngài liên kết giới răn thứ
nhất với giới răn thứ hai (c.31a) là phải
yêu mến anh em (Lv 19,18). Trong văn chương Do Thái
hồi ấy, người ta thường thấy thủ
pháp nối kết như thế. Nhưng ở đây Chúa
Giêsu quả là một bậc thầy như thế. Nhưng
ở đây Chúa Giêsu quả là một bậc thầy
tuyệt diệu: Ngài nối kết tình yêu Thiên Chúa với
tình yêu anh em, và hợp thành một giới răn duy
nhất. Để nêu lên tính duy nhất căn bản
đó, Maccô đã không ngần ngại dùng lẫn lộn
số ít với số nhiều: “Không có giới răn nào
quan trọng hơn những giới răn đó” (c.31b).
Câu
trả lời của Chúa Giêsu lập tức thuyết
phục được người nghe hoàn toàn. Ở câu
32, người này thực ra chỉ biết lặp lại
hai câu Thánh Kinh Chúa Giêsu đã trích dẫn, từ ngữ có
vẻ sát với thực tế hơn. Ông ta nhấn
mạnh thêm khía cạnh độc tôn của Thiên Chúa: “Thiên
Chúa là Đấng duy nhất, và chỉ mình Ngài, không có ai
khác” (Dt 4,35). Rồi ông kết luận rằng tình yêu Thiên
Chúa và tha nhân phải được coi trọng hơn các hiến
tế dâng cúng của Do Thái giáo (c.33). Điều này rất
phù hợp với ý tưởng của các tiên tri rằng:
Chúa phán: “Ta muốn tình yêu chứ không phải lễ
vật hy tế” (Hs 6,6). Giới Kinh sư chiếm một
vị trí quan trọng trong khu vực đền thánh
(từ 11-27). Chúa Giêsu thấy rõ điều đó nên Ngài
mới nói: “Ông đã phán đoán khôn ngoan” rồi khái
niệm (điều hiếm hoi đối với Chúa)
rằng “ông không còn xa Nước Thiên Chúa ” (c.34a).
người ta có thể hầu chắc rằng ngay trong
giới Kinh sư căm ghét Chúa Giêsu từ thuở
đầu (2,6; 3,22 v.v…) thì cũng có những kẻ
hướng tìm nguồn sáng. Tóm lại Maccô đã biến
cuộc gặp gỡ này thành một khoảnh khắc
hạnh phúc. Theo ông trái hẳn với Matthêu (22,34-40) và Luca
(10,25-28) –thì không còn một cuộc đối thoại nào
theo kiểu vừa nói nữa.
Ẩn
sau các câu hỏi đáp này, chính là một cuộc
đối thoại sâu xa giữa Chúa Giêsu với một
người Biệt phái cởi mở đặc biệt,
mà không hề có một hậu ý nào cả. Câu chót của
đoạn văn có một ý nghĩa đặc biệt.
Không còn ai dám hỏi Ngài nữa (c.34b), nghĩa là không còn
thời gian thuận lợi để tranh cãi nữa.
|