ĐIỆU LÝ YÊU THƯƠNG
Điệu
lý là thể loại âm nhạc liên quan quê hương –
gọi là dân ca. Các điệu lý có khi rất đơn giản nhưng luôn có
sức hút kỳ lạ. Tuy nhiên, trong tất cả các điệu lý hẳn là chẳng có điệu lý nào hấp dẫn và cần thiết bằng Điệu Lý Yêu
Thương – đặc
biệt là trong lĩnh vực tâm linh.
MẾN
CHÚA và YÊU NGƯỜI
là toát yếu của Thập
Giới – tóm lược
Thánh Luật của Thiên
Chúa. Chỉ có hai
điều và bốn chữ (theo Việt ngữ), nhưng
có thể rút gọn thành Yêu Thương (hai
chữ), và cũng có thể cô đọng thành Yêu (một chữ) – gọi là Luật Yêu. Nghe chừng rất đơn giản, và cũng
quá quen thuộc, thế mà sao
khó thể hiện quá chừng. Vâng, “biết rồi, khổ lắm, nói
mãi!”.
Có một
sự trùng hợp rất kỳ
lạ: Luật Chúa gồm
hai điều – liên quan chiều
dọc (mến Chúa) và chiều
ngang (yêu người), Thập
Giá cũng gồm hai nhánh –
nhánh dọc (hướng tới
Thiên Chúa) và nhánh ngang (hướng
tới tha nhân). Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai KHÔNG yêu thương
người anh em mà họ trông thấy thì KHÔNG THỂ yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga
4:20). Rất thực tế. Yêu thì phải thật, chứ không
thể yêu ảo. Thánh nhân tái xác định: “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng yêu thương
anh em mình” (1 Ga 4:21). Rất hợp lý, rất lô-gích.
Chính Chúa Giêsu đã từng nói đến việc “mến Chúa,
yêu người”, và nói
thẳng ra là Ngài đang trách mỗi chúng ta, trách thật và rất thẳng thắn: “Dân
này tôn kính Ta BẰNG
MÔI BẰNG MIỆNG,
còn lòng chúng thì lại
xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng
VÔ ÍCH, vì giáo lý chúng giảng
dạy chỉ là GIỚI LUẬT PHÀM
NHÂN” (Mt 15:8-9; Mc 7:6-7). Cũng liên quan “luật yêu”, một lần khác Chúa Giêsu xác định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy
là Đấng
ngự trên trời, mới được vào mà
thôi” (Mt 7:21). Ôi, nghe mà “nhột”
quá chừng, chắc hẳn
ai cũng thấy giật mình vì ai cũng thấy mình… “có tật”!
Chúa có cách nói nghe chừng “nhẹ nhàng” thế mà “nặng nề” lắm, giản dị mà phức tạp, nhẹ như “xoa” mà
“đau” thấm thía!
Khi nói đến “luật” thì
luôn liên quan “quyền”, nói
đến “quyền” thì thường liên quan sự “cạnh tranh”. Thường là thế, vì cái quyền (hành) luôn gây phiền (toái)!
Kinh Thánh cho biết rằng Vua Đariô (người Mê-đi, lên ngôi vua
năm 62 tuổi) quyết định
đặt trên vương quốc của ông 120 thống đốc để họ cai trị
toàn vương quốc
dưới quyền 3 tể tướng (tương đương
“thủ tướng” ngày nay), trong đó có ông
Đanien. Họ phải phúc
trình mọi việc cho 3 vị
này để nhà vua
khỏi bị thiệt hại. Ông
Đanien vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một THẦN KHÍ SIÊU PHÀM, nên vua có ý
định đặt ông
đứng đầu cả
vương quốc. Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm
cách BẮT LỖI ông
Đanien về việc triều
chính. Bới lông
tìm vết, bới bèo ra
bọ. Vì ghen ghét mà con người thường nhỏ nhen và hèn
hạ như thế đấy.
Tương tự, người Việt có
câu: “Con gà tức
nhau tiếng gáy”. Con gà như thế thì con người cũng vậy, ai “gáy”
hay thì người khác thường cảm thấy “ngứa” tai và “xốn” mắt. Chúa Giêsu bị ghét và bị giết chết nhục nhã cũng
chỉ vì Ngài là “cái gai” trong
cách nhìn của người khác.
Những người ghen ghét cũng
chẳng ai xa lạ vì
đó là chính những người
thân thiết nhất của
mình, như Chúa Giêsu đã nói thẳng: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình,
hay giữa đám bà
con thân thuộc, và
trong gia đình mình mà thôi” (Mc 6:4 ≈ Mt
13:57; Lc 4:24; Ga 4:44). Quá phũ phàng! Đời là thế! Thật vậy, CHỈ CÓ NGƯỜI GIỎI MỚI KHẢ DĨ CÔNG
NHẬN TÀI NĂNG CỦA NGƯỜI GIỎI. Thật đáng sợ, bởi vì “người ta có thể phạm tội chỉ vì một mẩu bánh” (Cn 28:21).
Không ưa dưa cũng có giòi. Ngu dốt thì bị khinh, thông minh thì bị ghét. Quái gở thật! Ông Đanien bị ghét chỉ vì ông “trổi vượt” hơn người khác,
âu cũng là lẽ thường.
Ngày xưa, trung thần
Chu Văn An đã “điểm
mặt” 7 nịnh thần nên bị họ triệt tới cùng.
Xưa đã vậy, nay cũng
thế thôi. NGƯỜI ĐỜI “KÈN CỰA” NHAU ĐÃ ĐÀNH, NGƯỜI THEO ĐẠO CHÚA CŨNG
CHẲNG HƠN GÌ, thậm chí người thời nay còn tinh vi hơn
nhiều. Vậy làm
sao có thể truyền giáo?
Họ
ghét thì rất ghét,
nhưng họ đã
không thể tìm
được một cái cớ nào hoặc một sai sót nào để bắt lỗi, vì ông
Đanien vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. Do
đó, những người ấy
mới cùng nhau bày mưu lập
kế: “Chúng ta sẽ chẳng tìm
được một cớ
nào để
bắt lỗi tên Đanien này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y” (Ðnl 6:6). Ác nhân quá thâm độc, thật đáng sợ tà tâm!
Ngày nay, con người cũng vẫn đã và
đang lăn vào “vết
xe cũ”, nhưng theo cách thức tân kỳ hơn, kỹ xảo hơn, vậy
mà vẫn “hãnh
diện” về cái mưu
thâm kế độc của
mình, rồi biện hộ
là “đúng quy trình”. Có lẽ
vì thế mà
Thiên Chúa soi sáng cho Giáo Hội
biết phải khuyến khích việc Tân Phúc Âm hóa, xem xét lại đức tin của chính
mình trước rồi mới
nói chuyện liên
quan người khác. Cứ ảo tưởng và ảo giác thì không thể thay đổi được gì.
Nguy hiểm lắm!
Rõ ràng ông Đanien là hiện thân của những người “ăn ngay ở
lành”, sống nghiêm
túc. Dù hoàn cảnh có thế nào, những con người ấy vẫn một
lòng kiên cường
tín thác vào Thiên Chúa: “Con yêu mến Ngài, lạy Chúa là sức mạnh của con” (Tv 18:2). Họ luôn tin yêu và không ngừng tin cậy Thiên Chúa: “Lạy Chúa là núi đá, là thành
luỹ, là
Đấng giải thoát
con; lạy Thiên
Chúa con thờ, là núi
đá cho con trú ẩn,
là khiên mộc,
là Đấng
cứu độ quyền năng, là
thành trì bảo vệ” (Tv 18:4). Chắc chắn rằng “người
công chính nhờ đức
tin sẽ được sống” (Gl 3:11).
Trong con mắt
của người đời, họ là những kẻ bị lép vế, bị thua thiệt, bị khinh miệt,
bị ghen ghét, bị
xa tránh, bị trù dập, nhưng họ vẫn âm thầm tin tưởng cầu nguyện và nương
tựa vào Chúa. Họ không ngần ngại xác định: “Chúa cho đôi chân
này lanh lẹ tựa chân
nai, Ngài đặt tôi
đứng vững trên
đỉnh núi” (Tv
18:46). Ngay trong gian truân, họ
vẫn hiên ngang tuyên tín: “Đức Chúa vạn vạn tuế! Chúc tụng Ngài là núi đá cho tôi trú
ẩn. Tôn
vinh Thiên Chúa là Đấng
cứu độ tôi” (Tv
18:47). Đúng như Thánh Vịnh
gia đã chia sẻ kinh nghiệm: “Chúa
ban nhiều chiến thắng
lớn lao cho Đức Vua chính Ngài đã lập. Chúa hằng ưu ái Đấng mà Ngài đã xức dầu tấn phong, là
Đa-vít cùng dòng dõi đến
muôn đời” (Tv 18:51). Đích thực là người của Chúa mới đáng tin, chứ “đừng mong gì nhiều nơi những người quyền
thế của thế gian này – vì hầu hết họ đều bỏ mặc
những người nghèo khó trong cảnh bần hàn, họ vừa hèn hạ vừa thiếu quảng đại,
giả điếc làm ngơ trước tiếng kêu than của những người yếu đuối
và bất lực” (Chân phước Placid Riccardi, 1844-1915).
Vừa
phân tích vừa xác
định, Thánh
Phaolô cho biết: “Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư
tế, bởi vì họ phải chết, không
thể giữ mãi chức vụ đó.
Còn Đức Giêsu,
chính vì Ngài hằng sống
muôn đời,
nên phẩm vị tư
tế của Ngài tồn tại mãi mãi. Do đó,
Ngài có thể đem ơn cứu
độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Ngài mà
tiến lại gần
Thiên Chúa. Thật
vậy, Ngài hằng
sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7:23-25). Đó chính là vị Thượng Tế mà
chúng ta cần đến, với
các đặc tính cần thiết: “Một vị Thượng
Tế thánh thiện, vẹn toàn,
vô tội, tách
biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời” (Dt 7:23-26).
Trong thư gởi giáo đoàn Do Thái có những điều xem chừng không
ăn nhập gì, vì
nói tới chức tư
tế, nói tới thừa tác vụ. Thế nhưng lại vẫn
“ăn nhập” lắm đấy. Tại sao? Tư tế
là những người có
trách nhiệm củng cố
đức tin cho giáo đoàn. Cây càng cao, gió càng lay. Tất nhiên thôi! Vì thế, Chúa Giêsu đã hỏi ngư phủ Phêrô
không chỉ một lần
mà ba lần: “Anh có mến Thầy HƠN các
anh em này không?” (Ga 21:15). Và đó cũng là câu hỏi hằng ngày Chúa Giêsu vẫn đặt ra cho mỗi chúng
ta. Mỗi người có
cách trả lời khác
nhau, nhưng đó là điều
kiện Chúa đòi hỏi từng người phải thật
lòng trả lời và
nghiêm túc thực hiện, để
chứng tỏ đức tin của chính
mình – và cũng chia sẻ
niềm tin đó cho tha nhân.
Chắc
hẳn là rất dễ đọc:
“Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài”. Thế nhưng vấn đề không
chỉ là “thuộc lòng” và “đọc như vẹt”, mà là
thể hiện lời tuyên
tín đó một cách sống động bằng hành
động cụ thể.
Ôi chao, chẳng hề dễ
dàng chút nào!
Như để giải thích, Thánh Phaolô nói: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là
để đền tội
của mình, sau là để đền thay cho dân;
phần Ngài,
Ngài đã dâng chính mình và chỉ
dâng một lần là
đủ. Vì Luật Môsê thì đặt làm thượng tế những con người vốn
mỏng giòn yếu
đuối, còn lời
thề có sau Lề Luật, lại đặt Người
Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời” (Dt
7:27-28).
Chính Đức Kitô đã hiến tế, chúng ta không thể làm khác – nghĩa là cũng phải hiến tế. Chúa
Giêsu đã hóa thành “tấm
bánh” để nuôi sống chúng ta, thế thì chúng ta cũng phải CẦM LẤY, TẠ ƠN, BẺ
RA và TRAO TẶNG chính Tấm-Bánh-Cuộc-Đời-Mình cho tha nhân, nhất là đối với những con người bé mọn, yếu đuối, nghèo khổ, lạc loài, cô độc,...
Một
hôm, có một người
trong các kinh sư đã nghe Đức Giêsu và những người thuộc nhóm
Xađốc tranh luận với
nhau. Thấy Đức Giêsu đối đáp hay, ông đến gần Ngài và hỏi: “Thưa Thầy, trong mọi
điều răn, điều răn nào
đứng đầu?” (Mc 12:28). Đức Giêsu
ôn tồn: “Điều
răn đứng đầu là: Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa,
Thiên Chúa chúng ta, là Đức
Chúa duy nhất.
Ngươi PHẢI yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn và hết sức lực
ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi
PHẢI yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó” (Mc
12:29-31). Hai điều răn
quan trọng nhất với hai động từ PHẢI mạnh
mẽ và dứt khoát –
không thể không
thi hành.
Nghe Đức
Giêsu nói vậy, ông
kinh sư thấy “đã
tai” nên liền nói với Ngài: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là ĐẤNG DUY NHẤT, ngoài
Ngài ra KHÔNG CÓ ĐẤNG
NÀO KHÁC. Yêu mến
Thiên Chúa hết
lòng, hết trí
khôn, hết sức lực
và yêu người
thân cận như chính
mình là điều quý hơn
mọi lễ toàn
thiêu và hy lễ” (Mc 12:32-33). Chắc hẳn chúng
ta cũng mang tâm trạng
như ông kinh sư này, cũng thấy rất thú vị và hợp
lý, nhưng NGHE và CHẤP
NHẬN là một
chuyện, còn THỰC
HIỆN lại là chuyện
khác. “Khoảng cách”
đó vừa gần vừa
xa, vừa hẹp vừa rộng. Trách nhiệm mỗi chúng ta là “lấp đầy” khoảng cách
đó.
Có lẽ
Chúa Giêsu cũng ngạc
nhiên khi thấy ông
kinh sư trả lời khôn
ngoan như vậy, và
Ngài xác nhận: “Ông
không còn xa Nước
Thiên Chúa đâu!” (Mc 12:34). Quả thật, không khó gì khi nói “mến Chúa” và “yêu người”. Chỉ là “chuyện nhỏ” mà thôi. Nhưng vấn đề quyết định cuối
cùng phải là THỰC HÀNH điều mình nói để chứng tỏ ĐỨC TIN một
cách cụ thể. Tại
sao? Bởi vì “đức
tin không có hành động
là đức tin chết” (Gc
2:26). Nói được
– đó chỉ là
“chuyện nhỏ”. Làm
được – đó mới là “chuyện lớn”, và là điều cần thiết mà
Thiên Chúa muốn thấy nơi
mỗi chúng ta.
Lạy
Thiên Chúa toàn năng chí thánh, thật hạnh phúc
khi chúng con được
nhận biết và tin vào Ngài nhờ Đức Kitô mặc khải, xin cảm tạ Ngài và
xin giúp chúng con sống
đức tin qua từng động thái hằng ngày, xin giúp chúng con biết chạnh lòng
thương trước
nỗi đau của tha nhân và dân tộc, nhất là những con người nhỏ bé và
yếu đuối vì bất công xã hội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
|